Mãi tin vào những kiếp người- Tập thơ mới của Nhà thơ Nguyễn Thế Kiên
Thử nhắp chuột vào “Kiên lục bát”! Nhà thơ Trần Quang Quý Ủy viên Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam Có một Nhà lý luận ...
http://www.maivanlang.com/2015/08/mai-tin-vao-nhung-kiep-nguoi-tap-tho.html
Nhà thơ Trần Quang Quý
Ủy viên Hội đồng thơ Hội Nhà văn
Việt Nam
Có một Nhà lý luận phê bình nhắc đến
“Kiên lục bát” và hỏi tôi có đọc, có biết gì về cây bút này không? Quả thực,
tôi cũng có loáng thoáng nghe... nhưng chưa đọc thơ của Nguyễn Thế Kiên, mà lại
là “Kiên Lục bát”, một danh xưng (trên mạng) có vẻ hơi bị... liều, giữa thời buổi
những thơ Tân hình thức, Hiện đại, Hậu hiện đại, Sắp đặt, Trình diễn... , thôi
thì đủ “pháp” của thời hội nhập bung ra, nên cũng ngó lơ thế thôi. Cùng với mặc
định về một thể thơ truyền thống đã được “cày bừa” quá kỹ qua thời gian, qua nhiều
đại thụ lừng lững của thi ca Việt thì không hiểu còn tí thẹo đất nào cho “Kiên
lục bát” canh tác không mà cây bút này tự tin thế?
Nhấp chuột vào blog “kienlucbat” thì thấy “cái mặt lục
bát” Kiên chường ra thế này:
“Nụ cười cũng thật hiếm hoi
Thơ văn ở cái thời tôi lằng
nhằng
Mớ ba mớ bảy sang sông
Đẻ ra một lũ tồng ngồng...
thơ tôi
.....
Thời tôi cả nước làm thơ
Nên câu chữ thiếu đến giờ đi
vay...
Thời tôi điên giả để say
Câu thơ nhuốm đỏ cối chày thời tôi…” (Lục
bát thời tôi sống)
Hóa ra tay này cũng láu, cũng “tếu”, cũng
phóng đại, mà có duyên ra trò. Và bây giờ, tôi có trong tay tập thơ “Mãi tin
vào những kiếp người” mà Nguyễn Thế Kiên nhờ thẩm định. Nó không phải là tập chuyên
lục bát. Nhưng với 98 bài dài, ngắn trong tập thì phần thơ lục bát vẫn chiếm số
đông, cái sự được của nó cũng lấp lánh hơn hẳn các thể loại khác. Và điều mừng
trước tiên là, lục bát Nguyễn Thế Kiên có sức hút thật, bởi ngay từ những bài đầu
tiên, cái cảm giác “ngó lơ” của tôi về Kiên lục bát đã có thể dẹp sang một bên để
đọc tiếp giọng lục bát này.
Nguyễn Thế Kiên không theo cách xoay
sở, thay đổi kết cấu lục bát thông thường, ngắt dòng, vắt dòng... mà nhiều cây
bút hiện nay vẫn làm để cho có vẻ hiện đại, cho mới lục bát. Anh vẫn chủ yếu tuần
tự câu 6, câu 8 như thủy tổ lục bát, nhưng cái hấp lực của nó ở chỗ, Kiên “lọc”
được những từ đã quá quen tai, đưa được nhiều ngôn ngữ đời sống đương đại, ngôn
ngữ dân gian hiện đại vào thơ; tính hài hước, giễu nhại với giọng tưng tửng... ,
đặc biệt là ngôn ngữ và đời sống quê làng gần gũi; chọn được những từ “đắc địa”
để có thể neo người đọc vào những câu thơ, khổ thơ lục bát vốn rất dễ tuột trôi
bởi vần điệu mượt mà, trơn tru thể loại: “Chiều
còn một nhúm trời xanh/ Ta ngồi với gã phỗng sành tỉ tê... / Mắt này, phỗng tuổi
bao nhiêu/ Mà sành sứ cả những điều dại khôn?” (Với phỗng sành). “Nhúm” là
từ làm cho người đọc khó ngó lơ, “sành sứ cả những điều dại khôn?” là cách nói ẩn
dụ những tâm sự có màu thế sự.
Một nét khắc khác về vùng quê thanh
bình như cổ tích: “Lúa thì con gái mơn
man/ Đàn trâu vẫn cứ nhênh nhang gặm chiều…/ Ừ, quê ơi, có đâu nghèo/ Lẫn vào
đâu đấy cũng bèo bọt trôi/ Về thôi chú, cạn chiều rồi/ Vòng đê cổ tích hương vời
vợi say” (Chuyện với Thần nông). “Nhênh nhang” không mới, thậm chí đã rất xưa,
nó chỉ sự đủng đỉnh, kéo dài thời gian, cảnh nông nhàn... nhưng trong một buổi
chiều quê, cái sự nhênh nhang của “Đàn trâu vẫn cứ nhênh nhang gặm chiều...”
thì thật thú vị, thật bình yên. Nhiều từ cũ biết dùng trong một ngữ cảnh nào đấy
bỗng có hồn, bỗng mới. Nó khác với những tính từ cũ sáo mà thơ trẻ hiện nay rất
ít dùng: lunh linh, long lanh, xôn xao, mênh mông, bát ngát... Cái tài là biết
làm cho chữ trở nên năng động, có hồn, có vị thế trong câu.

Nhưng ngoài những tạt ngang, xẻ dọc giễu
ghẹo, những hoạt ngôn “diễn chữ”, thì đời sống quê làng của một chàng lãng tử “Hồn
nông dân vẫn chửa... vơi tẹo nào” luôn ám ảnh, vời vợi nỗi niềm quê kiểng mặn
mòi, dân dã. Đây là nỗi niềm mẹ: “Gia tài
óng những đắng cay/ Dầm chua xót muối nên ngày vô tư/ Ngược nhau về nẻo nhân từ/
Bao dầm dãi hóa chân tu dưới trời” (Mẹ). Hay, đằng sau cái gọi là nông thôn
mới là một đời sống dường như bao đời vẫn vậy: “Rạ rơm ngán ngẩm phơi chiều/ Mắt quê mờ đục đọng heo hắt buồn/ Lặn vào
cổ tích chín non/ Làng quê bạc giữa mỏi mòn đồng chiêm” (Nông thôn mới). Nói
về dưa muối nhưng không phải nói về dưa, mà ở đó ướp muối cả nắng mưa, những
mùa đông giá, ướp cả cánh đồng cực nhọc, trong cái phận gọi là dưa ấy: “Bao nhiêu mưa nắng lên ngồng/ Mẹ ta muối cả
mùa đông nghẹn vàng/ Truân chuyên từ cánh đồng làng/ Nén cơ cực với phũ
phàng... phận dưa” (Dưa).
Ấy là nói về lục bát, những mảng thơ
khác của Nguyễn Xuân Kiên trong những mối quan tâm tương tác: Kiếp và phận, một
thoáng và hư vô, còn và mất, quê và phố, dân gian hiện đại và giễu nhại… thì
quê làng, những thay đổi của xã hội nông thôn đương đại, những pha trộn phố với
làng, những nét văn hóa quê từng “Mấy
trăm năm… nghèo khó vẫn nết làng” thì nay: “Giờ trước ngõ giàu sang, dạm năm bè bảy mối/ Bê tông hóa mấy ngàn năm
lụt lội/ Những trơn tru lấc cấc lên đời…”. Sau tất thảy thay đổi, cái còn
cái mất, cái đang tha hóa… , làng trong tâm thức của Nguyễn Thế Kiên vẫn là: “Nỗi niềm nào chia hết được buồn vui/ Bao ẩn
khuất rỗng làng đi cả/ Còn phía ấy, rưng rưng là nỗi mẹ/ Nén cô đơn thầm lặng mỗi
trang đời”.
Ít nhất, lục bát Nguyễn Thế Kiên
không gây cho người ta cảm giác “chán ăn” là do tác giả biết “khuấy” chữ, làm
cho chữ năng động hơn, không có cảm giác đều tai, mượt nhĩ. Có những câu thơ
neo được người đọc khó tính. Cái sự cù người đọc thật cần thiết trong dòng thơ
nhiều nếp nhăn hoặc nỉ non, tuột chảy. Nhưng cũng cảnh giác với sự vụn vặt dưa
góp, sự tỉa tót chữ hoặc lối phóng đại dai, sự lặp của chính mình…
Tôi quyết định ra mạng sau khi nán lại
ít lâu ở những dòng này: “Lá tương tư rụng
mỏng chiều/ Heo may trễ nải vòng eo cuối ngày/ Ước mơ/ úp ngược đêm đầy/ Mùa
rơi xuống bóng chạm tay một mình”. Những câu thơ bảng lảng và tâm trạng này
làm tôi tin có một Kiên lục bát.
Hà Nội, 1/8/2015