Nhà giáo nhân dân Hoàng Kiều với lớp hậu sinh- SG, NB Mai Văn Lạng
1- Cuộc đời và sự nghiệp : Nói đến Nhà giáo nhân dân Hoàng Kiều là nói đến người thầy một đời tâm huyết với chèo...

1- Cuộc đời và sự nghiệp:
Nói
đến Nhà giáo nhân dân Hoàng Kiều là nói đến người thầy một đời tâm
huyết với chèo. Suốt 92 năm cuộc đời 2/3 quãng thời gian ấy là chèo.
Sau khi học bên Trung Quốc về (1953) cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, NGND
Hoàng Kiều không một ngày nào không gắn với chèo. Ông giảng dạy,
nghiên cứu, viết sách, viết nhạc cho vở rồi sáng tác các kịch bản
đều là Chèo. Người vợ tào khang của ông, Ns nhà giáo Bích Ngọc, sớm
hôm cùng ông vất vả gánh vác chăm lo gia đình cũng là NGƯỜI CHÈO. Sau
này các con ông lớn lên, trưởng thành đại đa số cũng LÀM CHÈO.
2-
Một vài cảm nghĩ
Là lớp hậu sinh, khi tôi thi đỗ
vào trường Đại học sân khấu điện ảnh Hà Nội học thầy Hoàng Kiều
đã nghỉ hưu. Một vài buổi thấy dậy “Thỉnh giảng” thì lại ở khoa
kịch hát dân tộc, các lớp chèo, tuồng, cải lương chứ không phải lớp
biên kịch kịch nói chúng tôi.
Vốn say chèo từ bé, khi lên Hà Nội học, trường Đại học sân khấu
Điện ảnh, ngay cạnh Nhà hát chèo VN, tôi thường hay mon men sang xem
các nghệ sỹ nhà hát tập vở. Xuống tầng 1 của giảng đường xem các
bạn cùng khóa học hát, múa, diễn chèo. Ngày ấy, tôi cũng hay theo
“Hầu chuyện” các bậc nghệ sỹ hàng đầu chèo như Bùi Trọng Đang, Chu
Văn Thức và đặc biệt là NSND Dịu Hương. Cứ học xong là vào trong nhà
bà ở khu chợ Đồng Xa chơi, nghe bà nói về chèo, được gặp cô Tuyết
con dâu bà, rồi bà đưa ra chợ Đồng Xa mua rau, thịt. Một lần bà bảo
vào hàng bún bà đãi 1 bát. Tôi khép nép ngồi vào, bà bảo “ Ngọc
ơi, cho chô bát bún cho cháu này. Học sinh nghèo khó khăn nhưng yêu
chèo lắm”. Cô Ngọc miệng cười tươi chào cô rồi làm bún cho tôi. Bà
Dịu bảo đây là cô Ngọc dạy múa chèo trong trường, vợ thầy Hoàng
Kiều nguyên phó hiệu trưởng nhà trường đấy con. Tôi bưng bát bún mà ứa
nước mắt. Những người “Con nhà nông” như chúng tôi vất vả đã đành,
những nghệ sỹ nhà giáo lừng danh cũng muôn phần khó khăn.Sau này tôi
được biết thêm, dù làm đến chức Phó hiệu trưởng trường Đại học sân
khấu Điện ảnh, nhưng cả đời thấy liêm khiết nên gia đình lúc ấy khó
khăn. Hàng bún ngoài chợ đã giúp cô Ngọc chăm sóc cả gia đình những
ngày xưa khốn khó.
Cô Ngọc thì lúc ấy tôi mới biết
còn thầy Hoàng Kiều tôi đã nghe Đài, đọc báo biết tên thầy từ lâu.
Những năm 1980, tôi đã mê chèo. Hàng xóm nhà tôi có 2 vợ chồng bác
Tường, Hiên, vì mê chèo mà “dan díu” với nhau. Cứ đêm trăng sáng buổi
trưa nồng chồng nhị, vợ hát. Tôi hỏi các bác bác học ở đâu, các
bác bảo học từ sách của thầy Hoàng Kiều. Sau này khi chuẩn bị thi
vào trường, ra ôn thì, vào thư viện Hà Đông tra sách về chèo để mượn
nghiên cứu tôi lại được đọc các cuốn “Tìm hiểu các làn điệu chèo
cổ” “Tìm hiều sân khấu chèo cổ” v v. . .của NGND Hoàng Kiều.
Lúc ấy tôi vào trường mang theo bao ước mơ hoài bão, được gặp các
nghệ nhân nghệ sỹ lòng vui vô hạn mà phấn đấu học tập.
Sau
một thời gian, tôi được gặp, được trò chuyện với nhà giáo Hoàng
Kiều, thấy ông bình dị, khiêm nhường, nói chuyện mộc mạc chân thành
ấm áp yêu thường. Thầy Kiều tuy không trực tiếp dậy tôi những ông
cùng nhiều thầy cô, là người truyền lửa để tôi yêu chèo đến đắm say.
Thời gian sau này, về công tác
tại Đài TNVN, được làm việc cùng con trai ông, nhà báo Tạ Xuân Thọ,
đi công tác cùng anh Thọ, đến các làng chèo, hay đoàn chèo giới
thiệu anh Thọ là con trai thầy Hoàng Kiều ai cũng quý trọng mà kể
những kỷ niệm về ông.
Qua những câu chuyện được nghe của bao người yêu chèo chuyên và không
chuyên, chúng tôi biết thầy Hoàng Kiều là người đã đi về nhiều vùng
quê vừa nghiên cứu và dậy chèo cho các nghệ sỹ, đặc biệt là dàn
nhạc. Quý hơn cả, thầy là 1 trong những người đầu tiên đúc kết lý
luận về âm nhạc chèo, rồi viết sách, giới thiệu để người trong nghề
và những bạn yêu chèo, đọc hiểu và có thể học hát qua sách. Những
năm Miền Bắc sản xuất, miền Nam đánh giặc, mỗi làng xã có 1 đội
chèo thì sách của thầy Kiều quý hơn vàng, lan tỏa khắp nơi, tái bản
nhiều lần vẫn không đủ để phát hành
3-
Sống mãi với chèo
Lịch
sử sân khấu chèo ghi những mốc son chói lọi của sân khấu chèo Cách
Mạng, và trong những mốc son chói lọi ấy không thể không có tên Nhà
giáo nhân dân Hoàng Kiều. Bên cạnh những đóng góp lớn của ông cho “Âm
nhạc trong chèo”, những đúc kết lý luận từ thực tiễn một đời hoạt
động “quý hơn vàng” của ông qua những cuốn sách lý luận về chèo; bên
cạnh những kịch bản chèo như: Máu chúng ta đã chảy (1963), Bố
con người gác đèn (1969), Những cô gái mặt đường (1969), Cô
hàng rau (1980), Thiên kim tình hận, Nữ tú tài, Khát
vọng ngông cuồng... Theo chúng tôi đặc biệt là những đóng góp lớn
của ông trong việc xây dựng Đoàn chèo Trung ương- đơn vị anh cả đỏ của
chèo- rồi xây dựng trường nghệ thuật sân khấu và sau này là Trường
Đại học sân khấu và Điện Ảnh Hà Nội. Những thế hệ học trò nối
tiếp nhau trở thành những nhạc sỹ, nghệ sỹ lừng danh của làng chèo
Một
trong những điều mà làm nên “Thương hiệu” của NGND Hoàng Kiều là phong
cách sống giản dị, khiêm nhường. Có thể nói cống hiến của ông cho
lý luận, phê bình với chèo là rất lớn nhưng ông không là thạc sỹ,
tiến sỹ, phó giáo sư hay giáo sư (Rất nhiều người sau này nhầm ông
là giáo sư Hoàng Kiều) mãi sau ngày về hưu hơn chục năm ông mới được
phong tặng Nhà giáo ưu tú rồi nhà giáo nhân dân. Khi ra đi 5 năm ông
mới được truy tặng Giải thưởng Nhà nước
Chúng con, những lớp hậu sinh con
cháu của bác, của thầy Hoàng Kiều của ngành chèo luôn tự hào về
ông. Ông luôn là tấm gương cho hậu thế soi vào. Mỗi khi gặp khó khăn
trong soạn chèo lại dở sách của thầy Kiều; khi gặp khó khăn để làm
nghề lại nghĩ đến những tấm gương lao động cống hiến không mệt mỏi
cho nghề như ông và các bậc tiền bối tự soi mình vững tâm, tự tin
vững bước để “Làm chèo”.
Mãi nhơ về ông một đời dâng hiến cho chèo!
Hà nội ngày 4/7/2025