Thơ của nhà thơ Nguyễn Thế Kiên
Nhà thơ Nguyễn Thế Kiên Tôi biết về người thơ Nguyễn Thế Kiên ( Kienlucbat )từ lâu nhưng quen anh thì mới thời gian gần đây. Si...
http://www.maivanlang.com/2015/08/tho-cua-nha-tho-nguyen-kien.html
Nhà thơ Nguyễn Thế Kiên |
Tôi biết về người thơ Nguyễn Thế Kiên ( Kienlucbat )từ lâu nhưng quen anh thì mới thời gian gần đây. Sinh ra và lớn lên từ một vùng quê nghèo ( ý Yên- Nam Định ), một gia đình nghèo Nguyễn Thế Kiên đã tự học, tự đọc, tìm thầy, lắng nghe, suy ngẫm . . . và tìm cho mình một lối vào thơ rất riêng. Không chỉ làm thơ, mà thơ rất SÂU Nguyễn Thế Kiên- như tôi biết- còn là người am hiểu sâu sắc: Nho, y lý số và trên hết anh là người sống có TÂM và có Tình. Xin trân trọng giới thiệu bài viết của PGS, Nhà nghiên cứu văn học Vũ Nho về anh
LỤC BÁT VÀ THƠ NGUYỄN THẾ KIÊN
VŨ NHO
Chân dung ký họa nhà thơ Nguyễn Thế Kiên-Ký họa: Hà Huy Hiệp |
Nước Việt Nam nông nghiệp quá trình đô thị
hóa chậm chạp cho nên mỗi người dân đều có gốc gác một người nhà quê là điều
hiển nhiên. Nhưng gần đây, các thị xã đã lần lượt lên thành phố, các huyện lị
cũng thành ra phố xá, và ngay cả làng thì cũng không ít làng thành ra phố. Cho
nên giữa phố và làng có sự giao thoa,
thay đổi mà càng ngày phố càng lấn làng. Chưa kể một bộ phận dân cư của làng,
chuyển ra ở phố rồi “cắt hộ khẩu” vĩnh viễn. Một số khác thì nói như Lê Tiến
Vượng trong Lục bát bên đời : “ Người quê ra phố quên dần nhà quê” (
Người đi ra phố).
Nửa thế kỉ trước, ở Nam Định có một
người quê “dan díu với kinh thành”
nhưng luôn luôn khắc khoải về quê, luôn luôn muốn bảo tồn những nét “chân quê”,
ngại ngùng những khăn nhung, quần lĩnh,
áo cài khuy bấm. Tuy mong muốn không thành, nhưng ông đã để vào kho tàng
lục bát và kho tàng thơ ca đất nước một giọng điệu thống thiết đến nỗi đời sau
gọi ông là thi sĩ “chân quê”, thi sĩ “ bướm trắng tơ vàng”. Đồng hương trẻ Nam Định của ông, cũng là một cây
lục bát, nhà thơ kiêm PGS.TS luật học Phạm Công Trứ tiếp tục làm giàu gia tài
lục bát, nhưng anh không ngồi trong bóng râm, bị cớm nắng bởi cái bóng lừng
lững Nguyễn Bính. Họ Phạm đã đưa vào lục bát giọng giễu nhại, giễu mình, giễu
người và giễu đời. Cái mà bậc đàn anh không có. Bởi thế mà Phạm Công Trứ có
những gặt hái thành công. Bây giờ lại có một chàng lãng tử của đất Nam
Định dấn thân vào lục bát. Giữa những lúc thị trường tràn ngập thơ cách tân,
thời thượng theo mốt, thơ tân hình thức,
thơ hậu hiện đại với những tuyên ngôn kêu hơn chuông đồng, vang hơn mõ gỗ thì
Nguyễn Thế Kiên “ mang theo một thúng
ngôn từ chắt ra từ gốc rạ đồng chiêm”, tự tin đến mức liều lĩnh, xây ngôi
đền văn chương của riêng mình bằng lục bát, một thứ nguyên liệu sẵn có, dễ
kiếm, dễ tìm nhưng phải là thợ xây có hạng mới dám sử dụng. Và dẫu sao thì ông thợ xây lục bát ấy đã thành công bước
đầu. Hai cái giải thưởng văn chương, một của
UBND tỉnh Nam Định ( 5 năm trao
một lần), một của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Việt
Nam cho hai tập thơ đã làm cho người thơ vững tin mà lấy một bút danh kienlucbat, ghi lên hòm thư điện tử để
có thể giao dịch với toàn cầu.
Vậy thì Nguyễn Thế Kiên đã đóng góp gì
vào thơ bây giờ bằng thể thơ lục bát? Câu hỏi này đặt ra cho không chỉ người
nghiên cứu, phê bình, mà cho tất cả những ai yêu văn chương, đặc biệt là yêu
thể thơ truyền thống của dân tộc.
Trước hết Lục bát Nguyễn Thế Kiên là
lục bát thế sự, là thơ về những nỗi niềm, những phận người nhỏ bé, vô danh
thường có cái tên chung là thường dân. Mang câu lục bát nói lời thường dân ( Tự
bạch). Đấy có thể coi như mục đích sáng tác hay gọi cho sang trọng một tí là
tuyên ngôn nghệ thuật- ( một cái thuật ngữ chả còn mấy chút sang trọng khi loạn
tuyên ngôn!).Thơ lục bát ấy không xuất phát từ tháp ngà, không được tạo ra từ
phòng điều hòa mát lạnh. Nó được hình thành từ rơm rạ, từ bùn đất, từ hạt lúa,
củ khoai mang đậm nỗi nhọc nhằn và hồn vía nhà quê. Không ít lần nhà thơ khẳng
định:
- Ngược xuôi đi giữa tảo tần
Hồn rơm vía rạ hóa thân mà thành ( Tự bạch)
-
Nứt từ ngang dọc tơi bời…thơ lên (
Bão và thơ)
-
Thơ từ vạn nẻo đắng cay
Ủ thơm lên những tháng ngày tha hương ( Giá trị)
Khi
mà con người nhà quê ra phố thì cảm giác
thường là thương nhớ đồng quê,
thương nhớ những người vất vả một nắng hai sương, quần quật làm ăn, nhưng cuộc
sống không mấy dễ chịu, thường là vẫn nghèo, vẫn phấp phỏng trước thiên tai,
mất mùa, mất đất. Có người buồn nhớ
trước những thay đổi làm mất mái gianh, mất câu chèo cổ, mất cảnh yên
bình, mất những yên ả, trong lành của tình làng nghĩa xóm. ( xem Lục bát bên đời của Lê Tiến Vượng, nxb
Hội nhà văn, 2014). Nguyễn Thế Kiên không hoài cổ, cũng không phê phán. Anh chỉ
nói cái bền bỉ, cái vất vả của làng mình. Không hề tô vẽ hay lãng mạn hóa:
Gối
đầu lên nắng lên sương
Làng
tôi riêng những yêu thương một niềm
Gửi làng
Phú Giáp của tôi
Dấu
yêu trên những tròng trành
Tím
bầm mưa nắng đọng thành làng tôi
Làng
tôi
Cái
làng ấy đã hình thành từ bao đời. Người làng, người quê cũng từ bao đời lam làm
với mưa nắng, ruộng đồng. Cho nên tình
làng, tình người ấy giản dị thôi mà đằm sâu lắm. Dù là ở lại làng hay lên phố,
hoặc đi làm ăn xa tận miền ngược, miền
Nam, hoặc xuất khẩu lao động nước ngoài, thì ấn tượng về cuộc sống làng vẫn
không mờ phai. Vẫn biết vai trò của người làm ruộng:
Người
quê gieo những âm thầm
Để
cho mưa nắng bật mầm mà xanh
Chuyện quê
Mùa
màng ấy là niềm vui, là nỗi lo, là sự phấp phỏng của người quê với đất đai:
Lưng
trần phơi ải ngàn sau
Cánh
đồng chua bạc mái đầu người quê
Làng tôi
Người
quê như gốc rạ, giàu sức sống, bền bỉ, dẻo dai:
Gốc
trắng, xương chìm bồi vô tư vào đất
Cho
những cánh đồng bốn mùa ở cữ
Dưới
trời xanh mãi kiếp nông dân
Nhìn gốc rạ nảy mầm,
nghĩ về kiếp nông dân
Với
người lao động thì rạ, rơm là thân thuộc, cây lúa là thành quả lao động, là hi
vọng. Nhưng :
Mai
rồi kiếp lúa về đâu
Mưa
xanh nắng đỏ dãi dầu mãi thôi
Ngược hội Phủ
Dầy
Phố
đang lấn làng, những cánh đồng bờ xôi ruộng mật nhường chỗ cho nhà cửa, đất rào
dự án. Lại thêm cảnh thiên tai, lũ lụt mất mùa. Thế là người quê phải dạt lên
phố kiếm việc, bán sức lao động rẻ ở những “chợ người”:
Quê
nghèo nước mắt chảy quanh
Dấu chân cửu vạn thị thành dày hơn
Những tháng ngày sau bão
Chỉ
bấy nhiêu thôi, thơ của Nguyễn Thế Kiên đã khẳng định được giá trị của mình,
giá trị của việc nói lên tiếng nói, tâm tư của người làm ra hạt lúa, củ khoai,
mà trước đó trong làng thơ Việt đông đảo, chỉ có một mình nhà thơ quê gốc Hải
Dương Vũ Xuân Hoát.
Mặt khác Nguyễn Thế Kiên góp vào tiếng
nói thơ ca một giọng điệu thẳng thắn, hồn nhiên khỏe khoắn giàu chất dân dã.
Cái vốn từ ngữ đo bằng thúng của đồng chiêm ấy được trau chuốt và làm thành một
giọng điệu. Giọng điệu ấy thể hiện những
cảm xúc mạnh mẽ “ buồn vui hừng hực dốc
qua Mặt trời” (Nhận diện). Chúng ta sẽ bắt gặp nhưng câu nói tự nhiên “sụt
sịt cười”, “oang oang khóc”, “còi cọc ươn” ( Về), “len lén buồn” ( Gửi quê), “roi
rói xòe” ( Nói với dạ - vâng), “ong óc cơn mưa” ( Nghệ thuật) “ sấm rơm rớm vỡ”
(Đò lá). Ta sẽ chứng kiến cảnh “cãi nhau với mình” thật hài hước giàu chất tự
thú, giễu nhại:
Tôi
giờ chả sợ gì tôi
Vô
tư ngoen ngoét những lời chua ngoa
Cãi
nhau với chính tôi mà
Cãi nhau với mình
Những
khẩu ngữ : Lạy giời; Ối giời; Này này; Thôi
nào; Ơ kìa; Thì ra; Thế là; Kệ đi; Khổ chưa; Gớm chưa; Khổ lắm; Ô hay; Thế rồi; Chết chưa;
Nói thật; Thì vẫn thế; Ừ đúng thế; Ừ, em
nhé…làm cho thơ ca gần tiếng nói đời thường. Những câu thơ dùng từ ngữ
chắt từ rơm rạ, từ bờ tre ruộng lúa, từ đất bãi, mương đồng quả là ấn tượng:
Giàn
trầu phơi áo eo lưng
Em
hây hây trẻ mình tưng tửng già
Thơ
Trẻ con
lắm, trẻ con à
Em tơn tớn...đổ mưa xa gió gần
Ối giời, đuôi mắt có chân
Trẻ con...
Đêm giờ rẻ thối ra anh
Cò kè ...
Trăm rưởi là thành một đôi
Bã đêm
Chỉ còn mấy sợi râu thôi
Cứ ngo ngoe bạc trong tồi tội yêu
Đừng tin thiên hạ nói liều
Gửi tháng ba quê
Lục bát tình yêu và những bài thơ khác của Nguyễn Thế Kiên về cõi tình
có một vẻ riêng, hồn nhiên, hài hước mà không kém phần say đắm.
Chàng thi sĩ kêu toáng lên khi phát hiện được giới
tính của ông Trời trong cơn thất thường mưa nắng, đúng là giới tính của phụ
nữ :
Giời ơi, giới tính của Trời
Cũng là hồng má, thắm môi...Đàn
bà !
Giới
tính của trời
Nhiều
hơn thế, Thơ lục bát nói riêng và thơ Nguyễn Thế Kiên còn góp vào một chiêm nghiệm, một bình luận, một quan niệm về
thơ, về đời. Không lí luận và lập luận dài dòng, tác giả viết về một thời thơ cần xem lại:
Một thời thơ bỏ xa thơ
Ngây ngô ru ngủ bến bờ nhân gian
Đem khoe những cái nghèo nàn
Thành gia sản giữa miên man thánh thần
Chuyện một thời…
Thơ
phải từ bộn bề đời sống, phải nói tiếng nói của người lao động, phải đau nỗi
đau nghèo nàn, lạc hậu của kiếp người, của
đất nước. Thơ không phải là sự
làm đẹp, càng không phải giả tạo, ngoảnh mặt với đời sống. Có lẽ một thời thơ văn đã từng thiên lệch? Nên chi có thể khái
quát:
Một
thời giờ hóa khói sương
Văn
chương từ mặt đau thương kiếp người
Bình
minh mắc ngược chân trời
Chuyện
một thời…
Và Trăm
năm ngoảnh mặt giả vờ
Khuy
yêu cài lệch.
Bất ngờ
tuột.
Thương
Tác
giả muốn văn chương của mình mang sự hồn
nhiên, trong trẻo, vượt qua những khuôn thước cứng nhắc. Bởi thế mà có sự giễu
nhại:
Tôi
chuẩn mực, tôi uy nghi
Tôi
là cái máy đang đi vết người
Chuẩn mực
Và
những câu thơ như là tự thú này cũng nói lên một phần sự thật, mong muốn đem cái
xù xì, trần tục, bỗ bã của đời thường vào thơ:
Dạ
vâng thưa gửi cả ngày
Bỗng
thèm nói tục thế này giời ơi
Nói với dạ vâng
Chuyện
nói tục, dùng khẩu văn, Nguyễn Quang Lập đã thành công. Nhà thơ đồng chiêm Ý Yên Nam Định cũng mong theo xu hướng
đó.
Dù đã lấy lục bát làm bút hiệu của
mình, nhưng Nguyễn Thế Kiên không độc canh lục bát. Tác giả còn làm nhiều thể
loại thơ khác. Rồi còn viết tản văn, viết truyện ngắn, viết phê bình văn học. Năng
lượng sáng tạo như muốn cựa quậy trào ra những trang viết. Phải chăng, dường
như cũng có lúc thoáng nghi ngờ:
Anh
không nhiều lúc thật thà
Chút
duyên lục bát, gần xa ngán rồi
Gửi tháng ba quê
Thời
tôi cả nước làm thơ
Nên
câu chữ thiếu bây giờ đi vay
Thời
tôi điên giả để say
Câu
thơ nhuốm đỏ cối chày thời tôi
Thời
tôi lục bát chết rồi…
Lục bát
thời tôi sống
Chắc là nói quá lên thôi. Phóng đại vốn chẳng phải
là mới lạ kể từ thuở ca dao của ông bà. Những dù thế nào, Nguyễn Thế Kiên cũng đã có thành tựu
thơ, nhất là lục bát. Vấn đề còn lại là phải nhất tâm, phải chuyên chú, phải
tiết chế việc viết. Văn chương quý hồ tinh bất quý hồ đa! Điều ấy hẳn tác giả
đã biết, nhưng nhắc ở đây, thiết nghĩ cũng không thừa.
Hà Nội, 29 tháng Tư 2015