Chèo cổ làng Thất Gian- nét riêng độc đáo
Chèo cổ Thất Gian hành trình trở về cội nguồn Đối với những người yêu Chèo cổ, đôi khi một tiếng mõ rơi hay một tiếng trống chèo va...
http://www.maivanlang.com/2015/09/cheo-co-lang-that-gian-net-rieng-oc-ao.html
Đối với những người yêu Chèo cổ, đôi khi một tiếng mõ rơi hay
một tiếng trống chèo vang lúc đêm khuya cũng đủ làm nao lòng, dội vào tiềm thức
của họ nỗi nhớ khôn nguôi về một “thời xa vắng”. Chèo cổ Việt Nam gần như không
xuất hiện trong hơn nửa thế kỷ qua, nhưng giữa những sôi động của nhịp sống
hiện đại, loại hình nghệ thuật này vẫn như đốm lửa âm ỉ, chỉ cần một ngọn gió cũng
đủ thổi bùng niềm đam mê vốn cổ với những khát vọng dân gian tưởng như đã
thuộc về dĩ vãng…
Người say chèo
Sinh ra trong một gia đình nghệ sỹ nông dân bốn đời đi hát chèo,
ba đời đứng trùm (tương đương với chức tổng đạo diễn bây giờ), nhà nghiên cứu
văn hóa dân gian Trần Quốc Thịnh có một quá khứ đầy ắp tiếng chèo. Làng Thất
Gian quê ông xưa thuộc tổng Phù Lang huyện Quế Dương (nay thuộc xã Châu Phong,
huyện Quế Võ) là đất giáo phòng, một làng mà có tới 3 loại hình nghệ thuật:
chèo, ca trù và chầu văn, song chèo vẫn là “món ăn” tinh thần được yêu chuộng
nhất của bà con, nhất là trong những dịp nông nhàn. Cụ ông, tên tục Trần Văn
Bảy, tức cụ Lý Thống là người đầu tiên lập ra phường chèo Thất Gian. Đến đời
thân sinh ra ông Thịnh là cụ Trần Văn Độ, một trí thức nông dân chuyên dạy chữ
nho còn gọi là thầy trùm Điều, chuyên ra các vai ông Đồ, quan, đặc biệt tán hề
rất nổi trò.
Tuổi thơ của người nghệ sỹ già là những đêm theo cha đi hát ở
sân đình, có khi đến canh hai, canh ba mà chiếu chèo chưa tan, người xem vẫn
kín “ba mặt” cánh gà, những đứa trẻ vô tư như cậu bé Thịnh díp mắt “hồn nhiên”
ngủ ngay dưới chân diễn viên. Lên 9 tuổi, vai đầu tiên cha cho tham gia là đóng
hề, bưng tráp, chải chiếu, khi ấy cả phường chèo có 12 người. Rồi cha mất, phường
chèo tan, gánh hát còn có 7 người lúc đó đều đã trên 50 tuổi, thi thoảng “hoài
cổ’’ vẫn diễn lại vài tích trò quen thuộc phục vụ bà con chòm xóm. Chèo cổ mai
một, Chèo cải biên dần chiếm ưu thế, người ta không còn được thưởng thức loại
kịch hát lề lối, dãi dề, đà đận, nồng hậu, dồn dập tiếng trống chèo ngày xưa
nữa. Có những đêm, không ngủ được vì nhớ tiếng hát Chèo, ông Thịnh một mình tay
gõ trống, miệng hát lại đoạn chèo Kiều, Tống Trân đúng điệu, “thổ tận cam
tràng” mà xót lòng bởi sự đứt đoạn của một loại hình diễn xướng dân gian đặc
sắc do cha ông truyền lại. Mất nhiều năm dày công tìm hiểu, nghiên cứu, nay đã
ở tuổi “thất thập”, ông Thịnh mới thực hiện được tâm nguyện cả đời: khôi phục
gánh Chèo cổ Thất Gian. Đi gần hết cuộc đời, nhà nghiên cứu văn hoá dân gian
Trần Quốc Thịnh được bạn đọc biết đến qua gần 10 đầu sách, chủ yếu về văn hóa
dân gian. Tuyển tập “Những lời bông trong Chèo” dày 380 trang đã chính thức
xuất bản và sắp tới sẽ cho ra mắt cuốn “Chèo Cổ truyền làng Thất Gian” với
dung lượng gần 1.000 trang do NXB Văn hoá - Thông tin ấn hành. Chuyện một người
lao tâm khổ tứ, nhiều năm liền bỏ tiền túi để “nuôi sống” gánh hát đại
diện cho chèo Chiếng Bắc cũng là chiếu chèo duy nhất còn sót lại của Chèo cổ
Việt Nam nghe qua thật khó tin. Không ít người đã bảo ông là “hâm”, nhưng “hâm”
để phục dựng nền nghệ thuật dân gian quí giá gần như đã bị lãng quên thì điều
đó thật cần thiết và đáng trân trọng.
Bắc Ninh còn một chiếu chèo
Chèo nảy sinh và phát triển ở đồng bằng Bắc Bộ, bắt đầu từ Chèo
Chái hê (ai biết câu gì kể câu ấy), Chèo kể tích (ngồi thành dãy, lấy một tích
truyện: Lưu Bình, Tống Trân, Phạm Tải… ai nghĩ được cách kể, cách hát hay ở
đoạn nào thì diễn xướng đoạn ấy, nối nhau cho hết tích), đến diễn tích trò rồi
hoàn thiện như sau này. Chèo cổ xưa có 4 chiếng: chiếng Đông vùng Hải Dương,
Hưng Yên, Kiến An (thuộc Hải Phòng ngày nay)…; chiếng Đoài vùng Hà Đông, Sơn
Tây, Phú Thọ…; chiếng Nam vùng Thái Bình, Nam Định, Hà Nam… chiếng Bắc vùng Bắc
Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên. Riêng đất Bắc Ninh cổ mật độ phường chèo dày đặc,
nhiều gia đình mấy đời đi hát chèo, có khi cả nhà thành hẳn một gánh riêng. Nét
đặc trưng trong Chèo cổ, người diễn và người xem không cách biệt nhau, một
chiếc dây thừng căng giữa hai cột đình hoặc rạp, kéo cánh màn gió, vắt quần áo
lên gọi là buồng trò, diễn viên hoá trang ngoài cũng nhìn thấy, trải chiếu
diễn, người xem đứng hai bên sàn, trẻ con ngồi quanh chiếu, diễn thâu đêm suốt
sáng…
Thoáng chút suy tư, ông Thịnh bồi hồi nhớ lại thời hưng thịnh
của phường chèo Thất Gian xưa. Gánh hát có 12 người đều là học trò ông Trùm
Khoa hay còn gọi là nữ Khoa (lệ xưa không cho con gái đi hát “xướng ca vô loài”
nên con trai thường phải đóng thế) vì ông xinh trai, giọng tốt, đóng nữ nổi
tiếng. Kép chính của phường là ông Nguyễn Văn Lự tức Ba Lự vừa đẹp người lại
hát hay, diễn giỏi, thường ra kép bằng, đóng các vai chủ đạo như Mai Sinh (Nhị
Độ Mai), Kim Trọng (Kiều)… Kép nhì Nguyễn Văn Phòng (cũng là bạn nối khố của
ông Thịnh) nhỏ tuổi nhất phường, không biết chữ chỉ học truyền khẩu mà ra rất
nhiều vai hát “sạt mái ngói đình”, diễn Kiều ở Kiều Lương ông ra Vương Quan,
đến vai tìm mãi không thấy, thì ra bị các chị coi hát bế “cho đi ăn quà” và bảo
“cái thằng bằng cái ranh mà sao nó hát hay thế”. Ngoài ra nữ lệch còn phải kể
đến ông Nguyễn Văn Sử còn gọi là Sử Phượng thường đóng vai Tú bà, Đào Huế, Suý
Vân… trong vùng không đào nào sánh kịp. Nữ bằng Đặng Đình Trác có bằng Sơ học
yếu lược, làm thư ký họ lại, tốt giọng, chuyên đóng Kiều, Hạnh Nguyên, Phương
Hoa rất hay, về sau cơ thể phát triển cao lớn, vỡ giọng không đóng nữ được nữa,
chuyển sang các vai nịnh như Lư Kỷ, Đổng Trác. Riêng kép Đen có ông Nguyễn Văn
Xích, tiếng vang, âm đục thường vào vai Trương Phi, hung đồ, đôi khi cũng ra
vai quan cất đĩnh đạc như Mai Công, Hầu Đoan, Viên Ngoại… Thời ấy, những người
nông dân một nắng hai sương vất vả mà tối đến xóm làng vui như tết, Chèo cổ gắn
bó với dân như có duyên nợ.
Bà Nguyễn Thị Nhỡ, 58 tuổi, con gái cụ Nguyễn Văn Xích, một
trong 7 nghệ nhân cuối cùng của phường chèo Thất Gian những năm 1940 thế kỷ
trước, chuyên vào vai Sử mẫu được ông Thịnh đánh giá tầm cỡ bậc nhất nghệ thuật
Chèo cổ hiện nay nhớ lại “Lúc tôi khoảng hơn 10 tuổi đi xem thày hát thường học
lỏm, ở nhà những lúc 2 cha con cùng giã gạo thày lại dạy tôi hát vài điệu Sử
xuân, nhớ nhất là đoạn Dương Lễ rủ Lưu Bình học. Cũng đã mấy chục năm rồi còn
gì, vì không hát đều nên giờ quên nhiều lắm…”. Được xem các “nghệ sỹ làng” diễn
lại tích “Nhị độ mai”, có cảm giác hồn Chèo cổ đang sống lại. Với những người “nghệ
sỹ nông dân”, buổi ra mắt theo đúng nghi lễ cổ truyền ngày 19 - 5 - 2003 của
CLB Chèo cổ Chiếng Bắc làng Thất Gian đã nhen lên nguồn hy vọng mới cho sự trở
lại của loại hình nghệ thuật này. Tập hợp hơn 50 người ở 3 thế hệ, đông nhất
tuổi trung niên, những người như bà Nhỡ, ông Lữ, bà Nhị, bà Điệp, ông Sửu được
coi là “linh hồn” của CLB, đảm trách vai trò truyền dạy. Ngọn lửa nhiệt huyết
của những người đi trước đã truyền sang thế hệ sau. ở cái tuổi “bẻ gãy sừng
trâu”, có thể đam mê nhiều thứ khác nhưng chàng thanh niên Hoàng Văn Thắng lại
chọn lối hát cổ. Vẫn đang bắt đầu từ những vai hề, em mong muốn được thử sức
qua nhiều vai diễn, góp phần công sức nhỏ bé trong việc phục dựng nghệ thuật
Chèo cổ.
Làm gì để phục dựng Chèo cổ?
Chèo cổ là loại hình nghệ thuật dân gian gắn liền với sinh hoạt
cộng đồng làng xã. Những đổi thay trong nếp sinh hoạt và guồng quay hối hả của
cuộc sống hiện đại làm Chèo cổ bị bỏ quên trong một thời gian dài. Bên cạnh
đó, những khó khăn vật chất của cuộc sống đời thường là nguyên nhân làm mất đi
chút đam mê nghệ thuật cuối cùng của chính những người nghệ sỹ. Chèo cổ làng
Thất Gian những ngày mới phục hồi tưởng chừng không trụ nổi. Diễn viên ăn cơm
nhà, mỗi tuần tập 4 buổi, CLB Chèo cổ Thất Gian đã tồn tại đến ngày hôm nay dù
còn rất nhiều khó khăn.
Hiện Chèo cổ đang đối mặt với nguy cơ thất truyền do thế hệ nghệ
nhân cao tuổi mất đi mà chưa tìm được lớp kế cận, hơn nữa ngôn ngữ trong Chèo
có quá nhiều điển tích, điển cố mang đậm tính ước lệ, cách điệu, tượng trưng.
Do đó, từ không hiểu chèo đến không yêu chèo là khoảng cách vô cùng ngắn ngủi.
Nghệ thuật Chèo cổ từng được rất nhiều nhà chuyên môn giỏi nghiên cứu, tìm hiểu
và khai thác. Tuy nhiên, giữ gìn và phát huy vốn cổ không thể dựa vào một cá
nhân hay một CLB chèo mà cần phải có sự vào cuộc của các cấp ngành, sự tâm
huyết của tập thể nghệ sỹ và tấm lòng những người say mê chèo cổ.
Theo báo Bắc Ninh