Đại lược về tiến trình lịch sử sân khấu chèo- Trích Luận văn Ths của Mai Văn Lạng
Ăn no rồi lại năm khoèo Nghe giục trống chèo bế bụng đi xem Không biết tự bao giờ chèo đã trở thành một món ăn tình thần không t...
http://www.maivanlang.com/2017/07/ai-luoc-ve-tien-trinh-lich-su-san-khau.html
Ăn no rồi lại năm khoèo
Nghe giục trống chèo bế bụng đi
xem
Không biết tự bao giờ chèo đã trở
thành một món ăn tình thần không thể thiếu của người dân Việt Nam, chỉ biết
rằng tháng ba ngày tám nông nhàn, giêng hai mở hội làng vào đám thì không thể
thiếu tiếng trống tiếng hát của các gánh chèo. Tự thân chèo sau một tiến trình
phát triển khá dài đã trở thành một bộ môn nghệ thuật độc đáo bậc nhất của Việt
Nam. Nó độc đáo không chỉ ở các vai diễn, ở trò diễn, ở tích diễn, ở diễn viên
và ở người xem mà nó còn độc đáo ở trong từng câu hát. Có thể xuất phát từ
những câu hát chèo mà hàng trăm năm qua người ta thường rủ nhau: “Đi xem hát”
chứ không phải đi xem diễn, đi xem sân khấu v.v...
Chúng tôi rất đồng tình với các
tác giả: “Lịch sử sân khấu Việt Nam” từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX (NXBSK
xuất bản năm 2006) do Tiến sĩ Trần Đình Ngôn chủ biên, bản in RoMêo. Trong cuốn
sách này các tác giả đã cho rằng: “Sự phát triển của nghệ thuật ca múa nhạc,
một yếu tố tạo nguồn cho kịch hát dân tộc Việt nam”. Thật vậy, chúng tôi luôn
tin rằng những câu ca dao, những khúc hát giao duyên mặn mà tình tứ như: hát
Xoan Ghẹo ở Phú Thọ, Hát Dô, hát chèo Tầu ở Tổng Gối - Đan Phượng - Hà Nội, hát
Cửa Đình ở Phú Xuyên Hà Nội, Hát Giao Duyên ở vùng ngã ba Sông Móng- Hà Nam,
hát Trống Quân ở vùng Đức Bác - Lập Thạch, Vĩnh Phúc và Hưng Yên, Hải Dương,
Hải Phòng, hát ví, hò biển ở Yên Hưng - Quảng Ninh v.v... Có trước những làn
điệu hát chèo. Trong cuốn Lịch sử sân khấu chèo (Sđd- trang 28), các tác giả
khẳng định: “Trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, một di vật từ nền văn hóa Đông Sơn
còn khắc hình chim lạc, những dũng sĩ cầm khiên mộc, nhảy múa”. Nhiều truyền
thuyết được truyền tụng trong dân gian, trong kiến trúc, văn bia, thư tịch cổ…
cho ta thấy cuối đời Bắc thuộc, nghệ thuật ca múa nhạc đã phát triển phổ biến
trong dân gian…
Đến thời Lý, trong bối cảnh xã
hội yên vui hưng thịnh, nền văn học nghệ thuật của Đại Việt được dịp phát triển
mạnh mẽ. Qua cứ liệu vua Lý Thái Tông kết vạn tuế Nam Sơn, đặc biệt là văn bia
tháp: “Sùng Thiện Diên Linh” chúng ta có thể khẳng định rằng “nghệ thuật Ca,
múa, nhạc thời Lý đã phát triển đến trình độ khá cao, từ nội dung nghệ thuật
đến quy mô trình diễn”.
Trở lại với vấn đề lịch sử sân
khấu chèo: cho đến nay chưa có một nguồn tư liệu chính xác là chèo có từ bao
giờ nhưng qua tính chất các làn điệu hát, các khổ trống, các vở diễn người ta
có thể ước đoán rằng chèo đã manh nha có từ thời Đinh. Theo Giáo sư Trần Bảng
trong cuốn: “Khái luận về chèo” (NXB Sân Khấu xuất bản năm 1998) thì
“Tiếng trống đế đánh lưu không chẳng đã mang dáng dấp tiếng trống trong quân
đội nhà Đinh. Hát chèo bắt nguồn từ tiếng hát của bà tổ nghề là ưu bà Phạm Thị
Trân đời Đinh. Những thế múa cơ bản của chèo nhất là cuộn ngón hoa tay chẳng đã
thấy ở những điệu múa cửa đình, múa tế lễ thời ấy. Lại còn những trò kể vè, trò
nhại của chú hề cung đình đã in đậm trong các miếng trò hài hước châm biếm của
chèo”.
Nhưng đã gọi là nghệ thuật sân
khấu chèo thì nghệ thuật ấy phải mang được đặc trưng cơ bản của nghệ thuật sân
khấu mà một trong những đặc trưng cơ bản là tính xung đột và hành động. Những
hình thức mà chúng tôi vừa trích dẫn mới chỉ là những màn múa hát, những anh hề
vẽ mặt bôi râu làm vui chứ chưa có tính hành động, tính xung đột trong các sinh
hoạt văn hóa văn nghệ thuật thời bấy giờ. Vậy thì khi nào sân khấu kịch hát dân
tộc nói chung và sân khấu chèo nói riêng được gọi là một loại hình sân khấu: Đó
chính là lúc có một vở diễn xuất hiện và trong vở diễn ấy mang đủ những yếu tố
đặc trưng của sân khấu kịch. Vâng chúng tôi muốn nhắc tới vở: “Tây Vương Mẫu
hiến bàn đào”.
`Sách “Đại Việt sử ký toàn thư”,
của Ngô Sĩ Liên (NXBKHXH 1967, tập 2, trang 148) chép: “Trước đây khi đánh quân
Toa Đô, bắt được người phường hát là Lý Nguyên Cát, hát giỏi, dậy những con cái
tuổi trẻ ở nhà thế gia tập hát điệu phương Bắc. Nguyên Cát đóng tuồng truyện cổ
có các tích “Tây Vương mẫu hiến bàn đào”, người ra trò có danh hiệu quan nhân,
Chu tử, Tân Nương, Sửu nô, cộng 12 người đều mặc áo thêu, đánh trống, thổi sáo,
gảy đàn, vỗ tay, đánh đàn thay đổi nhau ra vào làm trò, có thể cảm động lòng
người, muốn cho buồn được buồn, muốn cho vui được vui. Nước ta có tuồng truyện
từ ngày đó”.
Sau sự kiện này, một loại hình
nghệ thuật ra đời đó là nghệ thuật Tuồng, nhưng nghệ thuật chèo vẫn chưa được
khẳng định có bắt đầu từ đó hay không? Giáo sư Trần Bảng trong cuốn: “Khái
luận về chèo” – Sđd - trang 23 - khẳng định: “Nghệ thuật chèo ra đời sau
bằng cách tiếp thu phương pháp nghệ thuật của Tuồng, phỏng theo cấu trúc của
tuồng, lấy kho tàng văn nghệ dân gian của lưu vực sông Hồng làm chất liệu, làm
bằng xương thịt mà tạo thành”.
Trải qua mấy thế kỷ, manh nha,
hình thành và ra đời khác với nghệ thuật tuồng, đi sâu vào miêu tả chốn cung
vua phủ chúa với những mâu thuẫn xung đột mang tầm quốc gia, nghệ thuật chèo đi
sâu vào quần chúng nhân dân. Lấy đời sống thường ngày của nhân dân làm đề tài,
lấy lời ăn tiếng nói của nhân dân làm ngôn ngữ nói, và lấy những làn điệu hát
dân gian để trở thành những điệu hát trong các vở diễn của mình. “Không thầy đố
mày làm nên”, không thể phủ định vai trò rất trọng yếu của các “bác Thơ”, hay
các thầy đồ, thầy khóa trong làng, ngoài xã trong việc đóng góp vào ngôn ngữ
trong chèo. Tuy nhiên yếu tố dân gian vẫn là chủ đạo trong nghệ thuật chèo.
Hiện nay số vở chèo cổ được lưu
truyền và ghi chép, rồi diễn lại không nhiều (Khoảng 07 vở) nhưng đáng chú ý là
một Vở chèo ngắn mà từ trước tới nay nhiều người đã đề cập nhưng chưa sâu, chưa
kỹ đó là tích: “Mục Liên - Thanh Đề”, hay con gọi là “Huyết hồ”.
Từ khi con bé tôi đã được bà ngoại, nếu còn sống năm nay trên 100 tuổi, hát kể
cho nghe tích này. Tích trò miêu tả khi chửa đẻ bà Thanh Đề thường mang đồ dơ
bẩn ra giặt rũ những chỗ ao hồ đông người dùng nước, ăn ở thì ngoa ngoắt nên
đến khi chết bà bị đày xuống 18 tầng địa ngục. Con của bà Thanh Đề là Mục Liên
đi tu đã thành chính quả ra sức làm việc thiện, cầu xin thần phật, đất trời,
ngục tốt cứu mẹ. Cảm động trước tấm chân thành và lòng hiếu đễ của Mục Liên mà
bà Thanh Đề được thoát khỏi 18 tầng địa ngục. Tích diễn này thường được các bác
thợ kèn trống của nhà có đám tang diễn trong buổi tối trước hôm đưa linh cữu ra
đồng. Sau tích diễn thường có màn hát “chèo đò” đưa vong linh vượt qua sông Nại
Hà là nơi nguy hiểm của chốn âm ty để quy y về với chốn Phật Đà tức là chốn
“Tây Phương cực lạc”. Loại trừ chức năng giáo huấn chúng tôi thấy nghệ thuật
diễn xướng ở đây có thể được coi như một lối diễn cổ nhất của nghệ thuật chèo:
Sân khấu biểu diễn là hai chiếc chiếu trải giữa sân, diễn viên thì từ trong nhà
hoặc từ phía ngoài đường đi vào, các nhạc công kèn trống là người vừa chơi nhạc
vừa vào vai diễn và có lúc lại nói tiếng đế. Các điệu hát ở đây rất gần với các
điệu hát của nghệ thuật chèo, đặc biệt là bài chèo đò có: “Khoan ới dô khoan”
rất gần với điệu chèo đò của chèo. Người xem là gia đình tang chủ và xóm làng
đến chia buồn. Nhiều đoạn diễn về nỗi khổ của bà Thanh Đề, người ta lại nhớ đến
nỗi khổ của người đã quá cố, con cháu khóc nấc lên, nhiều khi không tiếc tiền
thưởng cho phường kèn. Sự hoà đồng giữa người xem và người diễn là ngang nhau.
Người xem càng thấy cảm động “Càng khóc” bao nhiều thì người diễn càng hứng bấy
nhiêu. Đôi khi diễn xong, diễn viên, vốn là những nhạc công hóa trang, đổ mồi
hôi, mệt nhoài, phải nằm nghỉ mới lấy lại được sức. Theo nhiều nhà nghiên cứu
thì đây là một trong những bản cổ nhất của nghệ thuật chèo còn lưu truyền trong
dân gian. Chúng tôi thấy rất có lý nên đã miêu tả rất chi tiết để cùng minh
chứng điều đó.
Như trên chúng tôi đã trình bầy:
Nghệ thuật chèo hình thành, manh nha và phát triển trong lòng quần chúng nhân
dân, nó chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những trò diễn xướng dân gian nên ngôn ngữ
của chèo, một trong trong những thành tố rất quan trong tạo nên một đêm diễn
chèo đó chính là hát. Nhưng yếu tố hát trong nghệ thuật chèo không chỉ đơn
thuần là câu hát để thư giãn- giãn trò, mà điều đặc biệt là câu hát được tham gia
ngay vào tích trò. Nói một cách khác hát trong sân khấu chèo cũng chính là một
dạng của đối thoại tức là đối thoại đã được cách điệu, ước lệ thành hát. Có thể
nói hát là một thành tố không thể thiếu trong sân khấu chèo, phi hát bất thành
chèo. Nếu một đêm diễn chèo mà không có hát thì không thể gọi là diễn chèo được
chính vì vậy mà người ta có thể thuộc lòng tích diễn, kể vanh vách cốt truyện,
nhưng vẫn rất hăng hái đi xem bởi một trong những sức hút ghê gớm của nghệ
thuật chèo là: hát chèo.
Trong nghệ thuật hát chèo ngoài
yếu tố diễn viên (Giọng hát), nhạc công- đệm cho hát, giai điệu của bài hát
(Điệu) thì một yếu tố hết sức quan trọng, tạo nên sức hấp dẫn của một điệu hát,
thậm chí của một cảnh diễn, vở diễn, và thậm chí cả một đêm diễn: Đó chính là yếu
tố ca từ.
Trích luận văn Thạc sĩ " ca từ trong chèo " của Mai Văn Lạng
ảnh chụp tại lễ kỷ niệm 65 năm- Nhà hat chèo Việt Nam |