ĐÊM CHÈO SÂN BÃI- tản văn của nhà thơ Hoàng Anh Tuấn
“Ăn no rồi lại nằm khoèo Nghe giục trống chèo bế bụng đi xem Chẳng thèm ăn chả, ăn nem Thèm no cơm tẻ, thèm xem hát chèo” ...
https://www.maivanlang.com/2017/09/em-cheo-san-bai-tan-van-cua-nha-tho.html
“Ăn no rồi lại nằm khoèo
Nghe giục trống chèo bế bụng đi xem
Chẳng thèm ăn chả, ăn nem
Thèm no cơm tẻ, thèm xem hát chèo”
(Ca dao)
“Tối nay ngoài
sân bãi có diễn chèo đấy!”. Mấy bà đầu đội thúng, tay vung vẩy, miệng bỏm bẻm
nhai trầu vừa đi chợ Hoành Nha, vừa nói chuyện thế. “Tối phải ăn cơm sớm rồi đi
xem kẻo muộn, các bà ạ!” - Một bà khác nhổ toẹt nước quết xuống đường xen vào.
Chẳng mấy chốc cả cái chợ Hoành Nha biết tin ấy. Mong sao cho chóng tối, chóng
tắm trẻ con, chóng gà lên chuồng, chóng bữa cơm chiều mà hớn ha hớn hở, xí xa
xí xớn bế bụng đi xem chèo như trong câu ca dao xưa. Câu ca dao bỏ bùa mê bao
nhiêu thế hệ từ thuở ông cha khai sinh lập địa, lấn biển sinh làng.
Mẹ tôi là người
ít chữ, chỉ học lớp ba trường làng rồi nghỉ giữa chừng vì nhà nghèo quá, mẹ tôi
là con gái nên ở nhà làm lụng nhường cho các cậu là con trai được đi học, nhưng
mẹ tôi vẫn thuộc làu ca dao, tục ngữ, truyện Kiều, ưa nói vần vè và hát ru rất
hay. Nghe mẹ tôi ru con kiến cánh lửa trên vách sẽ quên bò, con mọt răng đen
trong cột sẽ quên nghiến, con nghê cổng làng cựa chân muốn nhảy, con hạc đầu
đình cất cánh muốn bay. Và tất nhiên mẹ tôi không chỉ mê chèo, mà là say chèo,
say nghiêng chiêng ngả trống, say đổ miếu xiêu đình. Cứ thấy diễn chèo là đi
xem. Cứ nghe hát chèo là hát theo. Những người đàn bà như mẹ tôi ở làng quê nhiều
lắm, họ yêu những làn điệu dân ca như yêu mẹ cha, chồng con, mùa màng, ruộng
đồng, làng mạc. Thứ tình yêu thuần phác, nguyên sơ sinh ra từ trong máu thịt
phù sa châu thổ.
Anh em tôi được
mẹ cho tắm sớm, giục ăn nhanh để tôi kịp ra sân bãi nhận chỗ ngồi. Trời mới sẩm
tối mà trẻ con đông thế, chúng nó trải tấm áo mưa trên cỏ để nhận chỗ ngồi cho
cả nhà, rồi cứ thế ngồi đợi cho đến tận lúc người nhà ra xem mới thở pháo nhẹ
nhòm vì đã hoàn thành nhiệm vụ mẹ giao. Tôi cũng thế, trải áo mưa ra rồi thắc
thỏm ngồi đợi. Thấy mấy đứa chơi trốn tìm, chọi cỏ gà cũng muốn nhập hội lắm,
nhưng sợ lúc mải chơi ai tranh mất chỗ nên lại thôi, cứ ngồi trên tấm áo mưa
xanh mà đập muỗi đói bồm bộp, muỗi sân bãi nhiều như vãi trấu, vung tro.
Mẹ dắt em Thơ đã
ra kia rồi, tôi thấy bím tóc hai bên của nó chổng ngược lên trời như reo, như
vẫy “Anh ơi, anh ơi!”. Hôm nay mẹ tranh thủ đi bán hàng. Hàng của mẹ là cái rổ
đựng đầy táo chua bố hái trong vườn nhà lúc chiều. Những quả táo tròn xoe như
trứng gà, trứng vịt so. Mẹ cắp cái rổ, bên trên úp một cái sàng. Từng ngón sần
chai bày táo lên mặt sàng và đặt cái đèn dầu vào giữa. Đèn dầu hắt quầng sáng leo
lét xuống mặt sàng tăm tối. Mọi người đi xem xúm vào mua táo, nhiều nhất là
những cô gái chưa chồng hay có chồng mà thèm ăn dở, chắc thế. Táo chua chấm vào
muối ớt làm cho những cặp môi hồng thiếu nữ cong cớn lên xuýt xoa, chỉ nhìn
thôi đã thấy chua lắm rồi, trai làng nuốt nước bọt ừng ực chả biết thèm táo hay
thèm…môi.
Tôi nhớ sân khấu
được dựng đơn sơ bằng vài cọc tre và ván gỗ, rồi căng phông màn lên. Ngày ấy,
quê tôi chưa có điện nên âm thanh và ánh sáng sân khấu có được là nhờ máy nổ.
Máy nổ chạy phành phạch xen lẫn tiếng lý lơi của diễn viên. Mà diễn viên cũng
không được ai nhớ mặt, biết tên bởi công nghệ lăng xê của truyền thông, cũng không
được tiếp đón, bố trí nghỉ trong khách sạn như bây giờ mà tự vào nhà dân để xin
ở nhờ, tự mượn nồi nấu cơm ăn. Khán giả xem thì mới nhận ra cái cô mua rau
muống, rau cần chiều hôm trước là Thị Kính của đêm hôm nay kìa. Biết thế, hôm qua
chẳng lấy tiền của…Thị Kính. Các đoàn chèo Thái Bình , Nam
Định diễn lưu động phục vụ bà con không bán vé lấy tiền bao giờ, những cái tên
diễn viên Minh Chí, Huyền Phin sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí bao người
dân quê lam lũ, hồn hậu.
Mẹ bán hết hàng
thì cũng là lúc tích chèo sắp lên màn, chẳng còn quả táo nào mà bán cho cô Thị
Mầu đang đi rình của chua nữa. Đám trẻ con chúng tôi đã bắt đầu thấy chán, và
giờ thì không phải trông chỗ ngồi, nên ra chơi đuổi bắt phía cuối sân bãi, mệt
quá đứa nào cũng nằm lăn ra cỏ thở hí hóp. Mẹ bế em Thơ ngồi trên tấm áo mưa,
vui buồn theo từng lớp nhân vật trên chiếu chèo. Khi thì mẹ cười với mẹ Đốp bốc
mồm xã trưởng đặt vào váy sồi vá chằng vá đụp, với chú hề chơi xỏ quan viên ngu
dốt tham lam. Lúc thì mẹ khóc với Thị Phương cắt thịt cánh tay nuôi mẹ chồng già
yếu đói khổ, với cô Tấm bị dì ghẻ ác nghiệt cơ cầu. Khán giả đôi khi nhập tâm
quá thét lên “Thằng Trần Phương kia mày không nhận ra vợ mày à?” hay “Thị Kính
có giết chồng đâu mà đổ oan thế con mụ Mãnh ơi?”. Tấm màn nhung đỏ rực cứ khép lại
một thân phận thì tiếng trống chầu âm vang lại mở ra một nỗi niềm.
Đám trai thanh,
gái tú lấy đêm chèo, sân bãi làm nơi hò hẹn. Chẳng mấy khi có dịp được ngồi sát
nhau mà không bị người làng nhòm ngó, dị nghị giữa thời vẫn còn “nam nữ thụ thụ
bất thân”. Lời trai nói mát như gió nồm quyện với tiếng gái cười giòn như sành
vỡ trong đêm chèo lúng liếng giêng hai. Qua mấy đêm chèo mà nên duyên chồng vợ,
cũng như ông bà tôi thuở trước nhờ câu chèo xe duyên, mối lái mà đi cùng nhau
cho trọn một kiếp người thương mến.
Mấy anh chàng
láu cá, nghịch ngợm vòng ra phía cánh gà bên trái rình mấy cô đào thay quần áo,
chẳng may rình trúng mấy chú kép, thế là bị đuổi chạy tán loạn bán sống, bán
chết. Thế mà chẳng chừa, lần sau diễn chèo lại hỏi nhau: “Không biết mấy cô đào
thay yếm bên trái hay bên phải nhỉ?” rồi nở nụ cười tinh quái, ranh mãnh.
Tôi lớn lên và trót
mang cái nghiệp làm thơ, thi sĩ Nguyễn Bính phải thốt lên hỡi cái nghiệp giời
đày. Bao nhiêu làn điệu chèo, bao nhiêu nhân vật chèo, bao nhiêu đêm chèo sân
bãi buộc vào thơ tôi như thắt lưng hoa lý buộc vào tấm áo tứ thân xác pháo Thị
Mầu. Màu chèo ấy hiện lên rực rỡ trong thơ tôi khi ngòi bút chạm vào nỗi nhớ
quê nhà, thứ màu của cây đa giếng nước mái đình, của guốc mộc áo the khăn xếp, của
người nông dân tảo tần một nắng hai sương, của đồng quê gian truân khê thối
chiêm mùa.
Sân bãi giờ
không còn vì người ta đã xây trụ sở ủy ban xã ở đấy. Tết này, tôi về quê phóng
xe ngang sân bãi ngày xưa, thấy nhớ lắm một thời thơ bé đi xem chèo. Tôi bơi
qua miền kí ức trong lành để tìm một thứ gì quý giá, mơ hồ đã đánh mất mà không
thể nào tìm lại, bỏ lại một vùng trống chiêng cờ quạt phía sau lưng…