Hồn quê lấp đầy- Bút ký của Hà Hương Sơn
Bút ký HỒN QUÊ LẤP ĐẦY ...
Bút
ký HỒN
QUÊ LẤP ĐẦY
Hà Hương Sơn
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Khi đọc những câu thơ này của nhà thơ Tế
Hanh, lòng tôi không khỏi miên man về những hoài niệm xưa cũ, nơi tôi từng hòa
đắm mình với dòng sông xanh cùng bóng lá của những hàng tre. Nhờ có những lời
thơ trong veo như thế mà tâm hồn tôi như được tắm mát, dù tôi sống lưu lạc xứ
người, mưu sinh vất vả trong những khu đô thị sầm uất, đầy bụi bẩn. Tôi nhắc đến
điều này là muốn nói rằng, khi một người nghệ sỹ sáng tạo nên một tác phẩm mang
đậm tính hồn quê, tính dân tộc, thì người đó như đang lưu giữ sắc màu của dân tộc
mình, một dân tộc hơn bốn nghìn năm văn hiến với ruộng đồng, sông núi.
Và câu chuyện về một người soạn giả chuyên
viết lời mới cho những làn điệu dân ca, chèo, âm nhạc truyền thống của dân tộc,
là một người như thế.
Nhắc đến chèo đương đại, với những ai yêu chèo
thì không thể không biết đến cái tên soạn giả quen thuộc này. Chính nhờ những
người như anh thì tôi mới có cơ hội biết nhiều hơn về chèo. Và không chỉ chèo,
mà còn nhiều làn điệu dân ca trên khắp mọi miền tổ quốc. Người soạn giả đó vẫn
ngày đêm miệt mài với hồn quê, với hồn dân tộc, nhằm giữ gìn và phát huy những
giá trị tinh thần vô giá mà biết bao đời ông cha ta đã chắt chiu. Người tôi muốn
nói đến là soạn giả Mai Văn Lạng.
Soạn giả Mai Văn Lạng hiện đang làm trưởng
phòng biên tập dân ca, chuyên biên tập các chương trình phát thanh dân ca trên
sóng VOV, biên tập các bài dân ca, thu thanh phát sóng các tiết mục dân ca Đài
VOV. Tôi hẹn gặp anh vào một buổi sáng mùa đông trời hơi se lạnh.
Anh sinh ra ở làng quê thuộc ngoại
thành Hà Nội, tuổi thơ anh trải qua những tháng ngày bên bà ngoại, được nghe bà
đọc Truyện Kiều, nghe bà hát dân ca,
hát trống quân (ngoại anh quê gốc ở Hải Phòng). Từng ngày qua đi, cậu bé Lạng
được bà cho chìm đắm vào những làn điệu dân ca do chính bà thể hiện, hoặc khi
bà mở radio. Tâm hồn nguồn cội được nuôi dưỡng từ đó. Như anh chia sẻ cùng tôi,
nhờ có bà ngoại, nghe radio, và đọc sách mà hồn quê đã lấp đầy trong anh từ bao
giờ anh cũng không biết. Từ đó, hồn quê dân tộc hòa vào tâm hồn anh. Để rồi lớn
lên, anh đến với công việc soạn lời ca mới cho những làn điệu dân ca cổ như một
định mệnh.
Năm học lớp ba, lớp bốn, chàng trai tên
Lạng đã biết làm thơ. Điều ấy nói lên rằng, anh đã có tố chất từ nhỏ. Anh biết
làm thơ sớm như thế là nhờ tiếp cận dân ca và âm nhạc dân tộc từ trước, bên cạnh
đó anh hay miệt mài đọc thơ, đọc truyện trên Báo Văn Nghệ. Anh không ngại chia sẻ, rằng anh đã đọc Báo Văn Nghệ đến nay đã gần bốn mươi
năm. Số báo nào ra anh cũng đọc, và hành trình đó kéo dài từ năm 1981 đến nay. Dù
biết làm thơ và có khiếu làm thơ từ sớm, nhưng nhiều người biết đến anh không
phải với tư cách nhà thơ, mà với tư cách một soạn giả. Có lẽ, ngôn từ, vần điệu
trong lời ca của anh có được là nhờ năng lực sáng tác thơ bẩm sinh từ bé kèm với
việc không ngừng trau dồi vốn văn hóa cùng sự nghe âm nhạc dân ca mỗi ngày. Vậy
nên, anh được mệnh danh là một người thành công
trong việc "khoác áo mới" cho rất nhiều loại hình dân
ca như: chèo, tuồng, cải lương, ca Huế, bài chòi, dân ca Nam Bộ, dân ca thiểu số, ca trù, hát văn.
Ngày học trung học cơ sở và trung học
phổ thông, anh được thầy cô và bạn bè giao phụ trách mảng văn nghệ, nhất là làm
báo tường, viết văn, làm thơ. Tình yêu văn chương, tình yêu âm nhạc cổ truyền
trong anh có cơ hội để được tung tẩy. Anh thường đưa những yếu tố làng quê như
cánh đồng, hương lúa, con đường làng vào trong những sáng tác của mình.
Học xong phổ thông, anh thi đỗ cùng lúc
cả ba trường đại học. Một là Đại học Tổng hợp, hai là Đại hoc Văn hóa với
chuyên ngành văn hóa quần chúng, ba là Đại học Sân khấu - Điện ảnh với chuyên
ngành biên kịch. Vào thời điểm đó, bạn bè cùng trang lứa, gần như không có ai
thi cùng lúc đỗ cả ba trường đại học như anh. Sau cùng, anh chọn lựa vào học
ngành biên kịch ở Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh.
Cứ nghĩ chàng trai mê dân ca và âm nhạc
cổ truyền đó sẽ chỉ tập trung vào việc học ở Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh,
nhưng vào năm thứ hai đại học, chàng quyết định học thêm văn bằng hai đại học hệ
tại chức, chuyên ngành tiếng Anh. Và cũng thời điểm này, chàng có tác phẩm chèo
với tên gọi Đi giữa rừng ngô được
phát sóng trên Đài tiếng nói Việt Nam.
Chàng trai mười chín tuổi, mang trong
mình nhiều khát vọng, đã khéo léo sử dụng thời gian để cùng lúc vừa học trên giảng
đường đại học chính quy, vừa theo học chương trình vừa học vừa làm, vừa tìm những
thầy cô (những nghệ sỹ nổi tiếng về dân ca và nhạc cổ truyền) để học.
Anh kể, khi học xong chương trình ở Trường
Đại học Sân khấu – Điện ảnh thì anh liền chạy qua Đại học Quốc gia học lớp văn
bằng hai vào lúc năm giờ, rồi sau đó anh tham gia học thêm tiếng Trung vào lúc
tám giờ. Anh bảo, vì học đại học chuyên ngành ngoại ngữ nên phải học thêm một
ngoại ngữ khác nữa. Gần như thời gian học của anh là kín mít. Lúc nào rảnh thì
anh đi tìm những nghệ sĩ nổi tiếng như cụ Minh Lý, NSND
Dịu Hương, NSND Thanh Hoài, NSND Thanh Bình để nắm bắt làn điệu, học hỏi kinh nghiệm thực tiễn, cũng như học cách viết
chèo và học cách viết lời mới. Và anh còn gặp gỡ các bạn sinh viên chuyên ngành
chèo, tuồng, cải lương để học hỏi thêm.
Trong quá trình học tập,
anh cộng tác với Phòng dân ca của VOV, nên khi chưa tốt nghiệp anh đã được gọi
đến Phòng học việc. Và khi tốt nghiệp ra trường, anh chính thức thi tuyển vào
VOV. Anh kể, vào lúc đó, ngoài khả năng chuyên môn thì VOV cần những người có bằng
ngoại ngữ - giỏi ngoại ngữ, thế là anh may mắn được tuyển dụng nhờ vào việc học
thêm văn bằng ngoại ngữ. Tháng 11 năm 1995, anh chính thức bước chân vào làm ở
VOV. Và cho đến hôm nay, ngày tôi gặp anh, vào tháng 11 năm 2020, thì anh chính
thức làm ở VOV 25 năm.
Thời điểm mới vào làm ở
VOV, để có điệu kiện theo đuổi đam mê của mình, ngoài thời gian làm chính ở
VOV, anh còn đi làm gia sư dạy kèm ngoại ngữ. Vào thời điểm những năm cuối thập
niên chín mươi của thế kỷ hai mươi, việc làm thêm này giúp anh có một khoản thu
nhập kha khá. Anh bảo, nếu anh không có ước mơ với dân ca và nhạc cổ truyền thì
anh chọn làm những ngành có liên quan về ngoại ngữ, vì như thế anh sẽ có thu nhập
cao hơn, nhưng anh đã chọn đi theo tiếng gọi của tâm hồn mình. Đến năm 1997,
anh được vào biên chế chính thức ở VOV.
Từ đó cho đến nay, bằng sự đam mê không mệt
mỏi, soạn giả Mai Văn Lạng luôn tìm cơ hội để có thể tìm hiểu cặn kẽ, nghiên cứu, viết lời mới cho
nhiều loại hình dân ca như chèo, tuồng, cải lương, ca Huế, bài chòi, ca trù,
hát văn… Anh đi khắp nơi trên dải đất hình chữ S này, để sưu tầm những làn điệu
dân ca. Anh chia sẻ, rằng mình
là người may mắn bởi dù có ra khỏi lũy tre làng nhưng vẫn được về làm việc ở
phòng Dân ca và nhạc cổ truyền, Đài Tiếng nói Việt Nam - nơi được coi là bảo
tàng âm thanh lớn nhất Việt Nam về dân ca, nhạc cổ truyền. Trong quá trình công
tác của mình, ngoài việc đi “vi hành” khắp từ Bắc đến Nam, từ miền Xuôi đến miền
Ngược, anh còn ra cả Trường Sa để lắng nghe tâm sự của các chiến sĩ về tình yêu
âm nhạc nói chung và dân ca – nhạc cổ truyền nói riêng. Nhờ có anh và đồng nghiệp
mà thích giả nghe đài biết đến nhiều loại hình dân ca và âm nhạc cổ truyền khác
nhau.
Nếu như trong lòng anh
không có niềm đam mê, thì có lẽ anh không làm được như thế. Niềm đam mê đã cho
anh khả năng để dấn thân, cho anh động lực để đi đây đi đó và miệt mài với công
việc làm một người lưu giữ hồn quê. Anh bảo với tôi, rằng anh muốn làm một người
lưu giữ tâm hồn dân tộc thông qua những làn điệu dân ca và âm nhạc truyền thống.
Đến thời điểm hiện tại,
sau gần bốn mươi năm chìm đắm vào những bài dân ca và những làn điệu quê hương,
anh đã có một gia tài khá đồ sộ với khoảng hơn 1000 bài viết lời mới cho nhiều
thể loại âm nhạc dân tộc như dân ca quan họ, ca trù, hát văn, xẩm, tuồng Bình
Trị Thiên, cùng nhiều thể loại khác, và chèo. Trong đó, thể loại chèo chiếm đa
số. Anh bảo với tôi rằng, anh nghe dân ca, âm nhạc cổ truyền, suốt cả ngày (vì
tình yêu và vì công việc), từ khi bắt đầu thức dậy vào lúc 5 giờ 30 phút sáng
cho đến khi đi ngủ vào lúc 11 giờ đêm, ngày nào cũng thế. Nghe anh nói, tôi
càng thêm khâm phục hơn tình yêu của anh dành cho dòng nhạc mà anh theo đuổi.
Bên cạnh việc viết lời mới
cho thể loại âm nhạc truyền thống, thì anh còn viết hàng trăm bài báo, bài
nghiên cứu chuyên về văn hóa. Và anh làm cố vấn cho hàng trăm buổi thi, liên
hoan, hội diễn, giao lưu dân ca – chèo trong cả nước.
Anh chia sẻ thêm, mỗi ngày
có hàng chục chương trình dân ca với hàng trăm bài dân ca được phát sóng trên
radio. Tôi hỏi về lượng người nghe có đông không, vì thời buổi này nhiều dòng
âm nhạc khác đang thống lĩnh thị trường. Thì anh bảo, lượng người nghe vẫn còn
nhiều, độ tuổi nghe cũng đa dạng, thành phần người nghe có cả người trong nước
và người nước ngoài (như các nước Anh, Pháp, Đức, Mỹ, …). Ngoài ra, anh còn làm
trang mạng riêng mang tên maivanlang.com
với gần cả vạn lượt đọc và nghe mỗi ngày, và sau 4 năm ra đời trang mạng riêng
thì có đến gần mười triệu lượt người đọc và nghe. Kênh youtube mang tên Soạn giả Mai Văn Lạng có gần nửa triệu người
đăng ký kênh với gần 200 triệu lượt người xem (với hàng ngàn video về dân ca và
âm nhạc truyền thống). Anh nói, thời đại ngày nay đã thay đổi rồi, mình phải
thay đổi cách truyền bá để dân ca và âm nhạc truyền thống đến với đại chúng rộng
rãi hơn.
Với sự hoạt động tận hiến của mình, năm
2016 anh được tặng danh hiệu là Một trong
10 Cây bút vàng của Đài tiếng nói Việt Nam, năm 2017 anh là Gương mặt duy nhất của Đài Tiếng nói Việt
Nam dự Hội nghị điển hình tiên tiến toàn quốc do Ban thi đua khen thưởng Nhà nước
vinh danh.
Khép lại buổi gặp gỡ đầy
thân tình giữa chúng tôi, trong tôi luôn hình dung về một người dám cháy hết
mình vì những sắc màu âm nhạc của dân tộc, một người cố gắng để hồn quê lấp đầy
những con người Việt Nam. Cái hồn quê đó là cái cội nguồn văn hóa bản địa, là
cái căn cước văn hóa để mỗi người con nước Việt tiến bước vào thời đại toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế. Anh còn nói thêm rằng, nếu ngành du lịch biết cách tận dụng
được cái “hồn cốt” này để phát triển du lịch trải nghiệm, và ngành giáo dục đưa
âm nhạc cổ truyền và dân ca các vùng miền vào trong chương trình giảng dạy cũng
như thực hành cho học sinh một cách bài bản hơn, thì có lẽ âm nhạc cổ truyền và
dân ca sẽ ngày càng phát triển.
Và tôi tin, nhờ có những người như anh mà màu
dân tộc Việt còn lưu giữ đến muôn đời sau.