Những đặc trưng cơ bản của nghệ thuật chèo cổ- Phần 3
Những đặc trưng cơ bản của nghệ thuật chèo cổ- Phần 3 Chèo thuộc loại sân khấu kể chuyện (Việt Nam), hay nói rõ hơn loại sân khấu kịch...
http://www.maivanlang.com/2015/09/nhung-ac-trung-co-ban-cua-nghe-thuat.html
Chèo thuộc loại sân khấu kể chuyện (Việt Nam), hay nói rõ hơn
loại sân khấu kịch hát kể chuyện dân tộc
Nghệ nhân vừa bước vào chiếu chèo đã nói rõ là sẽ kể lại câu
chuyện (đã xảy ra) bằng trò diễn, để khán giả qua đấy mà khách quan nhận xét
những sự hay dở, phải trái trong suy nghĩ và ứng phó của nhân vật. Họ vừa
thưởng thức tài nghệ người đóng vai, từng lúc thông cảm hay xúc động trước tình
huống hoặc sự biến mà nhân vật nhận chịu, đang thể hiện trên chiếu, vừa nhắc
nhau phẩm bình diễn kỹ của nghệ nhân hoặc tự rút ra bài học thiết thân trong
cuộc sống thường ngày.
ở vở cổ nào cũng vậy, ngay trong lớp giáo đầu, sau câu hát chúc
“trăm họ câu ca cổ vũ” hoặc dân làng “bình an khang thái” là tiếp đến:
Nhớ xưa tích cũ
Có một chàng tên gọi Trương Viên
Nghệ nhân ra chiếu là dễ dàng xưng danh nói tên tuổi gia thế
khát vọng cho khán giả biết sẵn nhân vật mình sắm thuộc loại người nào:
Tôi họ Chu tên gọi Mãi Thần
Tài học đà thông kinh quán sử,
Tuổi đã cao, nhà lại khốn khó,
Ðấng trượng phu, sinh chửa gặp thì...
Tiếp theo là các sự biến xảy đến tuần tự, làm cớ cho nhân vật
bộc lộ suy nghĩ và hành động. Số sự biến này, về gốc gác không có “dây mơ rễ
má” gì với nhau, nghe qua tưởng chúng là những hiện tượng xã hội xảy đến ngẫu
nhiên; song xét kỹ chúng phải được đặt đúng theo trình tự đã do bản trì sắp xếp
mới chứng minh được đạo đức nhân vật, từ mỏng đến dày, kỳ tới khi đạt yêu cầu
giáo huấn mà toà soạn giả đề ra cho bản trò. Hay nói khác đi, cách chọn lựa và
trình bày những sự biến trong một tích với cách ứng phó của mỗi nhân vật đều có
đặc điểm khuyến giáo đạo đức chi phối. Nhìn bên ngoài, những sự được xếp theo
thứ tự tự nhiên, không xáo trộn việc sau đi lên việc trước.
Tỷ như Thị Phương được phát lộ phẩm chất để xứng đáng là “nàng
dâu nuôi mẹ thế gian mấy người”, qua mấy sự biến:
một, dọc đường chạy giặc bị đói, nàng cắt thịt cánh tay đem nấu
cháo dâng mẹ
hai, vào động Qủy bị Quỷ đói ăn thịt, nàng kể lệ sự tình, được
Quỷ vợ thương, xin Quỷ chồng tha và cho vàng;
ba, gặp Hổ bị Hổ đòi ăn thịt 1 trong 2 người, mẹ và con đều dành
nhau xin chết, làm Hổ thông cảm mà tha cả hai.
bốn, Thần rừng đòi nàng khoét mắt làm thang thuốc chữa bệnh cho
mẹ, nàng vâng chịu và bị mù...
Hoặc Châu Long nuôi bạn thay chồng 3 năm dòng, đã ở danh phận
“vợ chồng” với Lưu Bình, phải chịu 3 lần thử thách mỗi khi chàng đòi giao hoà,
và phải có cách từ chối khôn khéo làm sao không làm mếch lòng, trái lại càng
tâm phục, xứng đáng là người phụ nữ “dạ sắt gan vàng”
ở mỗi nhân vật trên, xét nguyên nhân nội tại, các sự biến xảy
đến với họ dường như không dính dáng với nhau; chúng xảy đến ngẫu nhiên chẳng
khác chuyện đi đường bị phân chim rơi xuống đầu. Có điều mỗi sự biến đó đòi hỏi
nhân vật phải có suy nghĩ và ứng phó chứng minh một khía cạnh phẩm cách; và các
khía cạnh phẩm cách bộc lộ sau khi giải quyết sự biến đó, cần theo trình tự của
bản trò quy định, để đạo đức nhân vật dày lên từng lần, kỳ tới khi đạt đủ mức
giáo huấn của bản trò. Mọi sự thể hiện lẫn lộn trật tự trên dưới các sự biến đã
chọn lựa, sẽ chỉ làm giảm sút hiệu quả sân khấu, vi phạm vào quá trình chuyển
hoá tâm lý môi sinh vẫn quen quan niệm ở địa bàn.
Là xét mối quan hệ cơ khí giữa các sự biến trong quy trình bộc
lộ đạo đức mỗi nhân vật chèo. Chứ nhìn tổng quát cả đời một nhân vật thì thấy
chúng vẫn nằm trong luật nhân quả thông thường; người tốt trước sau sẽ đạt hạnh
phúc cá nhân, nhiều khi là hạnh phúc cả gia đình; kẻ xấu sẽ chịu hậu quả chẳng
ra gì Trong khi kịch dram đòi sự đối đãi nhân quả ngay giữa các sự biến trước
sau, dắt dây chúng lại để rồi cùng nằm trong chuỗi sự biến của mối mâu thuẫn đã
biến thành xung đột mà tác phẩm khai thác...
Cũng vì không ràng buộc vào mối xung đột đang phát triển từ thấp
lên cao, mà từng sự biến của chèo có thể tách ra biểu diễn độc lập, và tùy giá
trị nghệ thuật (nội dung, diễn xuất) mà nổi lên từng mảng, lớp (nay gọi là
trích đoạn). Có điều các mảng lớp này phải được se nối vào một tích trò có đầu
đuôi, có kết hậu, làm cho ai xem cũng nhớ và kể lại được câu chuyện về một hay
đôi người sống đạo đức hay không có đạo đức; kèm theo vô số cảnh đoạn bài câu
hát ,về những hiện tượng trái tai chướng mắt, xảy ra trong sinh hoạt thường
ngày ở nông thôn hay cung đình chùa đền. Do đó, không ít câu chuyện cổ trong
dân gian được các ông Trùm, bác Thơ, nghệ nhân tài năng soạn lại thành bản
trò. Chuyện cổ ở đây có thể mới ở dạng ngắn hoặc vừa, như số chuyện ghi lại
trong Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, cũng có thể là số truyện thơ nôm
dài khá phổ biến trong xã hội ta mấy thế kỷ XVII, XVIII, như Phạm Công Cúc
Hoa, Hoàng Trìu ,...
Trong quá trình kể lại, việc lược bỏ, kể lướt hoặc nhấn mạnh vào
tình tiết hay sự biến nào là hoàn toàn tùy thuộc vào yêu cầu của chủ đề tiết
mục, để tích truyện thích hợp với đặc điểm nghệ thuật kịch chủng mà thêm cô
đọng, hấp dẫn.
Vì phải kể lại câu chuyện bằng diễn xuất chèo, nghệ nhân không
có ý gây cho người xem tưởng nhầm những sự biến đang “xảy ra” trên chiếu diễn
là cuộc đời thật, đến mức tê liệt tính năng động chủ quan mà đi tới hoà nhập,
tự nguyện làm “tù binh” cho tác giả và đạo diễn (như kịch dram'). Trái lại,
nghệ nhân chèo nói rõ và đúng mọi cách để khán giả giữ nguyên trí sáng suốt,
bám chắc vào cương vị khách quan, mà cùng họ khảo sát, đánh giá tích hát, đánh
giá hành động của nhân vật. Không ít khi, khán giả còn giúp đỡ nghệ nhân thể
hiện tốt hơn vai đóng (qua tiếng đế, tiếng trống khẩu, trống chầu,...) góp phần
thúc đẩy buổi diễn tiến triển một cách phóng khoáng, thích thú sinh động.
ở chèo, khán giả và nghệ nhân cùng đứng về một phía mà định giá,
thẩm xét lại tích truyện đang trình diễn. Bằng những lời xưng danh báo tính,
những tiếng Ðế hỏi, Ðế hứng, những câu làm cười...đôi bên giúp nhau dẫn truyện,
nhắc nhau tỉnh táo theo dõi và thể hiện câu chuyện sao cho linh hoạt. Từng lúc
gặp chỗ “đất tốt” mà soạn giả dành sẵn, nghệ nhân lại vươn lên đóng vai “giống
như lột” cốt gây cảm xúc cần thiết cho nhữnh người ngồi thưởng ngoạn vây quanh
thống khoái mà ngấm trò. Nghệ nhân không quan tâm nhiều đến “bản thân” sự biến,
chỉ thụ động nhận chịu, nhưng phải có cách ứng phó với những tác dộng của sự
biến đó sao cho hợp tình hợp lý, chẳng những“ bảo toàn”mà còn làm lộ phẩm chất
(đạo đức) con người nhân vật, còn nguyên nhân đưa sự biến đến cho “mình” thì đổ
tại “hoàng thiên”, “tạo hoá xoay vần”,... Do đó, các sự biến có sự tách biệt dễ
dàng làm thành những “lớp diễn” riêng, như chèo (cổ) có vô số lớp mà ngày nay
quen gọi là trích đoạn khả dĩ bứt ra trình bày “độc lập”: lớp Phù thủy, lớp
Việc làng, lớp đánh ghen...
Những sự biến“ngẫu nhiên” được“ soạn giả” chọn lọc sắp xếp làm
thành bản trò, nhằm vào một chủ đề nhất quán, trên nguyên tắc làm sao cho phẩm
chất nhân vật chính yếu, thứ yếu ngày càng sáng rõ, và từ sự biến đó, nghệ nhân
thể hiện thành những lớp trò, rồi tùy quan điểm và nhận thức (đối với bản trò)
và tài năng của những người ghim ghép chúng thành một vở diễn tổng thể, mà đưa
ra công chúng tiết mục mạch lạc, chặt chẽ hoặc bề bộn rối ren. Nói nhân vật
chính thứ yếu vì trong số nhiều vở cổ, nhân vật thứ yếu lại là người “làm nên”
thân chuyện của tích, trong khi nhân vật chính yếu chỉ như “chủ hờ” là “cột
cái” trong gia đình và có mỗi một việc; đi học, đi sứ, đi đánh giặc hoặc làm
quan, như Thị Phương trong vở Trương Viên, Châu Long trong vở Lưu Bình Dương
Lễ, Cúc Hoa trong vở Tống Trân Cúc Hoa ...
Ðừng quên, cả những câu chuyện “vừa xảy ra” hay “có thể xảy ra”
khi được khai thác để soạn thành bản trò, cũng phải “cũ hoá”, tức đẩy lùi về
thời quá khứ, ngó hầu nhà nghề, trước hết là soạn giả, có thêm điều kiện mà vận
dụng số lề thói truyền đời của loại sân khấu kể chuyện, như “nhớ xưa tích cũ”
“vậy có thơ rằng” “xưng danh báo tính” đế hỏi tung hứng "...Ðấy cũng là số
quy tắc đòi người đóng vai, dẫn tích phải tuân thủ, đồng thời gợi nhắc khách
xem thưởng thức nghệ thuật năng động.
Cho nên nói chèo thuộc loại sân khấu kể chuyện dân tộc trong đó,
nghệ nhân sử dụng linh hoạt sáng tạo các yếu tố tự sự, trữ tình, hài hước, phối
hợp trong một kết cấu kịch hát độc đáo. Ðánh ngang bằng thể loại kịch hát kể
chuyện dân tộc (Việt Nam) với yếu tố tự sự cũng như yếu tố trữ tình, yếu tố hài
ước là không thỏa đáng. Vì quá trình phát triển của các loại hình nghệ thuật Tự
sự (épique), Trữ tình(lyrique) đến Kịch(théâtre) đã coi là những bước tiến mang
tính quyết định thể loại. Chèo là loại kịch hát nhưng vẫn rất coi trọng và sử
dụng hiệu quả những yếu tố tự sự, trữ tình, hài ước, ngay khi biết kết hợp các
hình thức nghệ thuật khác (như giáo, chèo đò, trò diễn dân gian, bao gồm cả
những trò trình mặt, trò trình nghề ...) để tạo thành một loại kịch hát và từng
bước chuyển hóa sáng tạo mà “tiến lên”. Cái lõi kịch bộc lộ qua số vở có truyền
thống, thấy có mức gia tăng rõ dệt, như từ sự nhận chịu thụ động của mẹ con Thị
Phương trước những lục lượng hắc ám thiên nhiên, của xã hội, của Thị Kính chịu
“nhẫn ” trước thái độ lấp trùm của mụ Sùng, trước sự trơ trẽn của Thị Màu, đến
“đụng độ” âm thầm nhưng không kém kịch liệt giữa Cúc Hoa và Trưởng Giử, giữa
Châu Long và Lưu Bình,... hoặc đụng độ công khai gay gắt vẫn ở mức “nhẹ nhàng”
giữa Thị Màu với Thị Kính qua tiếng mõ, giữa Súy Vân với Kim Nham qua lời lẽ
diễn,... đến cuộc đối mặt quyết liệt “nảy lửa” giữa Ðào Huế với Tuần Ty và nhân
tình...
Chèo thuộc loại sân khấu ước lệ - cách điệu
Tách bạch ra thì ước lệ chỉ số quy phạm nghệ thuật do các thế hệ
nhà nghề đúc kết trong quá trình diễn tả, đã được đông đảo người xem chấp
thuận, nhưng không gian, thời gian, sự cố trong bản trò hoặc các khía cạnh
tâm trạng của mỗi tính cách nhân vật, cô đọng và xúc tích xét cả mặt hiệu quả
sân khấu và ý nghĩa thẩm mỹ. Cũng như (diễn xuất) cách điệu là sự chọn lọc,
khoa trương, tô phóng động tác biểu tả, làm nổi hơn và đẹp hơn những góc cạnh
của sự việc hoặc tâm trạng nhân vật, tương hợp với đặc tính của số thủ pháp
cùng nằm trong ngôn ngữ kịch chủng (là hát, múa, nhạc, thơ), nhằm tạo dựng
phong cách nghệ thuật một vở diễn hay một lớp trò.
Với chèo sàn diễn không đơn thuần chỉ là đôi chiếu trải, mà tùy
thuộc vào hình thái miêu tả của nghệ nhân, nó có thể là đường đi, cảnh nhà hoặc
đò giang, rừng núi; là liền kề gang tấc hay xa xôi cách trở. Nó kết hợp sát
sao với thời gian để cùng mang tính giả định co giãn không chừng, giúp ích
chèo bao quát nhiều nhiều loại vai, từ nhân vật chủ đề đến nhân vật tình tiết,
theo sát câu chuyện mở dần từ đầu đến cuối. Trong đó, nhân vật được thể hiện
bằng hành động bên trong và bên ngoài, bằng suy tư tâm trạng với ước vọng cuộc
sống hạnh phúc, theo bản năng sinh tồn hoặc ngưỡng tín về một quyền phép siêu
giới huyền hoặc mà còn rất chú trọng các mặt cấu thành môi trường sống của mỗi
con người.
Vì thế chèo hết sức quan tâm đến tính nhất lưỡng của mỗi sự vật,
mỗi con người, để thành quả đưa ra được toàn diện chân thật. Nó đòi nghệ nhân
khi đóng vai phải tùy lúc tùy nơi mà khi thì thoát, đem thân mình làm công cụ
thể hiện với thái độ phẩm bình, định giá trở lại nhân vật; khi thì nhập, vươn
lên đóng “giống như lột”, gia tăng sức truyền cảm để khán giả ngấm trò mà tiêu
nhuyễn nhẹ nhàng chủ đề câu chuyện. Nó vừa phải yêu cầu diễn xuất phải ước lệ
thoả đáng để có thể kết hợp tốt với múa hát, vừa chấp nhận những động tác cách
điệu ở dạng gần gũi đời thường. Nó không khép kín những quy tắc ước lệ cứng
nhắc mà cho phép mở ra những đoạn diễn gắn bó máu thịt với hiện thực trước mắt.
Nói “nhại” kịch phương “Tây”, thì diễn xuất chèo là từng chuỗi hành động bên
trong bên ngoài nối tiếp, cả những tâm tư mơ ước, để đủ chứng minh những con
người đạo đức hay không đạo đức khi thì biểu hiện (thoát, giả) khi thì thể
nghiệm (nhập, thật) làm sao cho người xem trò biết là giả, song phải gây nổi
cảm giác chân thật, để ngay lúc vui cười thoải mái vẫn thấy nảy ra ẩn ý khuyến
cáo cảnh báo.
Trên thực tế diễn xuất chèo (cổ), ở hàng loạt mảng, lớp thấy bên
cạnh nhiều nhân vật hành động và lời trò mang tính ước lệ biểu trưng không ai
chối cãi, hay còn vô số nhân vật hành động và nói năng khoa trương khuyếch đại
gợi nhắc hay đến hiện thực đời thường. Như khuôn diễn Lão say với dáng đi
nghiêng ngả, chân nam đá chân siêu, dọng lè nhè, rất “gần gũi” với điệu bộ của
không ít lão say rượu ngày hội làng nơi thôn ổ, khó có thể coi đấy thuộc loại
nhân vật ước lệ. Từ khuôn diễn “lõi” ấy, nghệ nhân vừa vận dụng chuyển hoá
thành những ông Mãng, ông Trinh, Lão Mộc,... khá sinh sắc, cũng chưa thể xếp
vào loại ước lệ. Thế nhưng những Hương “câm”, Ðồ “điếc”, Thày “mù” mang sức gợi
tả liên tưởng cao, do tính khái quát của hình “ảnh” lớn, thì đúng là mấy nhân
vật ước lệ. Hoặc hành động của vợ Mõ bóc mồm Xã trưởng đùm vào thắt lưng, rồi
...hạ xuống, hoặc Phú ông cầm dùi thử trống chiêng vào đầu, vào lưng “thằng”
Nô,...cũng có tính ước lệ nhất định. Bên cạnh đấy, vô số nhân vật, đoạn diễn
khác đã có những hành động và lời trò còn ở mức cách điệu chưa cao, thậm chí,
có người gọi là cách điệu cấp thấp khi xem mấy anh Hề diễn lại những biểu hiện
cảnh vật của đời sống một dung tục, thô thiển.
Vì thế chúng tôi dùng thuật ngữ ước lệ - cách điệu, là có ý với
tất cả diễn xuất vốn cổ truyền thống. Cũng là để nhắc lại mục đích không đi tìm
“cái giống” bên ngoài của sự việc hoặc nhân vật mà phải làm bật lên “cái thần”
bên trong của bản chất nhân vật. Câu khen “giống như lột” của khán giả khi được
xem những lớp chèo hay là nhằm vào cái chân thật của thần thái nhân vật qua
diễn xuất chính xác tinh tế của nghệ nhân. Bởi khi thể hiện những đoạn tâm trạng
dạt dào xúc cảm của nhân vật, mà nghệ nhân “hoà nhập làm một” với vai đóng, thì
sẽ khó giữ nổi bình tĩnh mà khách quan xử lý diễn kỹ cho tinh xảo, để làm khán
giả mụ mị mà rơi vào cảnh ngồi xem sân khấu ảo giác (đừng quên sự giống nhau
bên ngoài của nhân vật với đời thường rất “tiện ” cho khán giả hoà mình đồng
cảm với vai đóng), là điều trái ngược với phương pháp sân khấu của chèo cổ.
Ðặc điểm đa dùng và chuyên dùng nghệ thuật đã bộc lộ quy luật
phát triển của chèo (cổ)
Nghệ thuật chèo còn hằn lên không ít dấu vết của những trò diễn
dân gian, điệu múa dân gian, cả vô số lễ tiết của phần cúng tế trong các hội
làng vùng đồng bằng và trung châu bắc Việt Nam. Ðấy cũng là một nguyên nhân nói
lên tính nguyên hợp của nghệ thuật chèo cổ.
Như lớp giáp đầu (vở chèo cổ nào chả có) thì cả âm nhạc và diễn
xuất, cả cách hành văn cách dùng từ ngữ, thể thơ, đều thấy rõ có nguồn gốc từ
kết cấu của loại bài Giáo (như Giáo trốn, Giáo đò, Giáo roi...) phát triển lên,
đủ cả hát chúc, nín lặng mà nghe tôi dẫn trích, vậy có thơ rằng - thơ làm
sao... Như ở nhiều trò trình mặt mà nội dung và hình thức (cả văn chương và
diễn xuất) hiện vẫn thấy trong kho hề chèo; với vài chục Nhiêu Lai, Nhiêu Công,
Nhiêu Hà, Nhiêu Tài,... ở những trò trình nghề còn thấy trong các đám rước ngày
hội làng mấy vùng Phú Thọ, Sơn Tây, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hoá, và chèo trở
thành những Thày Ðồ, Thày Bói, Phù Thủy,... ở những khuôn múa cổ tay, múa ngón
tay, cả những đoạn múa đèn, diễn trong hát múa cửa đình, múa quạt, múa đèn, múa
dâng hương, dâng hoa cúng Thần, cúng Thánh, ở nhiều làng vùng Bắc Ninh, Hưng
Yên, Hải Dương, Thái Bình, Nam Ðịnh,... Ðừng quên, đến cách mạng 1945, nghệ
nhân chèo vẫn dùng từ ghim ghép hiểu theo nghĩa đen, để chỉ công đoạn phối kết
các trò diễn dân gian, những dân vũ dân ca, cả những chi tiết của những trò
ấy, điệu ấy làm thành diễn xuất của cả từng lớp khi kể lại tích, xây dựng hình
tượng cho tiết mục.
Không phải ngẫu nhiên khi chèo cổ phân ra 5 loại đóng chính là
đào, kép, hề, lão, mụ, nhưng “loại” vai mà sử sách thời Lý Trần đã chép rõ.
Ðương nhiên, từ vai làm cười của “Tổ sư” Sai ất “nhại” lại dáng hình (và lời
nói) một viên quan, một trưởng giả đến khuôn trò của một hề Gậy với đủ các câu
ra trò (với tiếng Ðế), sang nói đếm kể sự tích tên mình, rồi “kết” bằng “câu” ...
con lại có thơ “để Bác hỏi”thơ làm sao" mà vào ngâm... là cả quá trình
sáng tạo, trau chuốt của lớp nghệ nhân, cha truyền cho con, phường này sang
phường khác, vùng nọ đến vùng kia, mà có nổi những lớp diễn riêng cho từng Hề
gậy, Hề Mồi, Hề áo ngắn, Hề áo chùng.
Cũng vậy, từ những trò nhại về Thày Ðồ, Thày Thuốc, Thày Cúng...
còn thấy trong Hội Trám (Phú Thọ), Hội trò Chiềng (Sơn Tây, Thanh Hoá) “tiến
lên” trở thành nhân vật Thày Ðồ, Thày Lang, Phù Thủy trong chèo đâu phải chỉ do
một hay vài nghệ nhân mà nổi ngay đình đám. Những trò ấy hay những mảng của
những trò ấy vốn đã có hình có hồn ở mức đơn giản, dạng “bắt chước hiện thực”,
nay vận dụng vào một tích truyện cụ thể, nghệ nhân sẽ phải tìm cách làm cho
hình đó rõ nét hơn, hồn đó linh hoạt sống động hơn, là điều chắc chắn.
Chính con đường phát triển đó của nghệ thuật kịch hát chèo, đã
được cha ông đúc kết dần thành đặc điểm chuyên dùng và đa dùng trong nghệ thuật
chèo cổ. Chuyên dùng là chỉ một nhân vật dùng; đa dùng là nhiều nhân vật cùng
thể loại hoặc khác thể loại dùng.
Nghe và xem chèo cổ, ai cũng nhận ra dễ dàng, rằng mỗi loại nhân
vật cổ đều có những nét bộc lộ sắc thái riêng, mang tính khái quát về một loại
người, bắt đầu bằng những câu nói ra trò, rồi xưng danh báo tính, tiếp đến hát
(và diễn) một bài nói lên bản chất lớp người ấy.
Hãy nói loại vai tương đối đơn giản không mấy giữ vị trí thật
quan trọng trong tích. Như nhân vật lão ở tầng lớp nghèo, thường là ông già râu
tóc bạc phơ, đầu quấn khăn lượt, mặt hồng hào, áo lụa điều, quần lụa mỡ gà lá
tọa hơi xếch, tay chống gậy chân đảo bước giật cục, ngả nghiêng xiêu vẹo theo
đường gẫy, hát múa (đúng ra là diễn xuất cách điệu) bình tửu, nét mặt tươi vui,
thỉnh thoảng cười lên ha hả thanh thản... Khuôn trò trên là cái lõi của những
nhân vật ông Mãng, ông Trinh, Lão Mốc,... Khi nghệ nhân vận dụng vào những tích
cụ thể sau đó, mà giá trị nghệ thuật của chúng, còn do tài năng của người soạn
tích và nhất là sức sáng tạo trong diễn xuất của người đóng vai.
Như nhân vật mụ là bà lão khăn đen mỏ quạ, áo xống thắt lưng
xanh đen giản dị, lưng còng, tay chống gậy, bước chậm, chốc lại tự đấm lưng nhè
nhẹ, hát câu hoài thai kể lại công sinh dưỡng con cái, từ lúc mang thai tới nay
trưởng thành, xong rồi mới ngẩng lên hỏi: “Con mời mẹ ra đây có việc gì...” khuôn
trò này sẽ làm lõi cho những mảng diễn về Tống Mẫu (vở Tống Trân Cúc Hoa),
Trương Mẫu (vở Trương Viên),...
Như nhân vật thư sinh thuộc loại vai kép chín thì khăn lượt, áo
kép (trong lụa bạch, ngoài the hoặc sa đen) quần trắng ống sớ, chân giày kín ngón
(một thời là giày Gia Ðịnh), tay quạt phe phẩy, mặt tươi, bước khoan thai xênh
xang, nói năng đúng mực, chữ nghĩa, sau khi xưng danh báo tính là bắt sang hát
cách bộc lộ chí hướng “quyết tu thân ”... Khuôn trò này được soạn giả và nghệ
nhân vận dụng vào từng tích cụ thể mà trở thành những Trương Viên, Kim Nham,
Tôn Dân,... để ra trò, tiếp đó mới đi sâu vào chuyện tích; kép ngang ăn vận
chải chuốt hơn, nói năng huênh hoang, bước chân chữ bát phóng túng, cũng xưng
danh báo tính, nhưng không hát cách, như Trần Phương (vở Kim Nham), Ðình Trưởng
(vở Tống Trân Cúc Hoa), Biện Ðiền (Phạm Tải Ngọc Hoa),...
Như nhân vật đào, loại nữ chính thì khăn lụa vấn, áo chùng kép
(ngoài the, sa đen, trong lụa mỡ gà hoặc điều), thắt lưng bỏ núi, xuống đen bén
gót, dận dép quai ngang, bước khoan thai khép gối, tay che quạt dấu mặt, trông
thẳng, đi thẳng, vuông góc, từ trong buồng trò cất câu sử bằng kể công cha mẹ,
ra chiếu, dứt hát, khép quạt hạ tay, cúi đầu thưa: “Trình cha, con đã ra
hầu...”. Thị Kính, Thị Phương, Phương Hoa đều như thế. Loại nữ lệch thì ăn vận
diêm dúa, xống quét đất, áo mớ ba thả vạt, dận dép, tay quạt che nửa mặt, mắt
lúng liếng, sắc lẹm, đi đứng nhún nhẩy chung chiêng, ngoắt ngoéo theo đường
sóng lượn, thường nói lệch, nói chênh xưng danh báo tính rồi vào hát.
Dĩ nhiên, đấy mới là đận ra trò, các nhân vật lão, mụ, kép, đào
trên, nhất là loại nữ lệch, còn sẽ được soạn giả và nghệ nhân “bổ xung” những
sự biến đòi họ phải nói ra tâm trạng (để vận dụng hát múa), phải ứng phó và
hành động (qua lối nói và động tác cách điệu), mới có thể xây dựng thành những
nhân vật đủ sức treo gương sáng cho mọi người noi theo, hoặc làm gương xấu để
ngăn ngừa... Cũng thấy ngay một điều, rằng mỗi loại nhân vật bước ra chiếu chèo
thường là dùng hát (nói lối cũng xem như hát) kèm theo kiểu diễn xuất cách điệu
tương ứng, để xưng danh báo tính và trình bày ý chí cũng là ước vọng của bản
thân ở độ khái quát chung nhất, để sau đó, vào tích, mới bộc lộ dần tính cách
thuộc phạm trù đạo đức theo bản trò quy định.
Tức là mới chỉ ra trò mỗi loại vai đã có làn điệu hát với diễn
xuất riêng, không dùng lẫn với nhau, song có thể vận dụng cho những nhân vật
cùng loại mang tính cách xuất phát giống nhau, nhằm hoàn thiện khuôn diễn, khả
dĩ “kể lại” đầy đủ con người mỗi cá nhân Lão say chuyển thành ông Mãng thành
Lão Mốc,... thư sinh chuyển thành Trương Viên, thành Kim Nham,... nữ chính
chuyển thành Thị Phương hoặc Phương Hoa, với loại nữ lệch thì cái đoạn ra trò
ấy chưa là gì so với con người đúng thực của họ...
Ai cũng biết hát (và nhạc) giữ vị trí quan trọng trong nghệ
thuật chèo, nói chính xác là trong ngôn ngữ nghệ thuật chèo, nên xem xét mặt
này cũng có nghĩa phải kèm theo sự phối kết với múa và diễn kỹ. ở nhiều vở cổ,
thấy những làn hát sắp, hát sa lệch, hát đường trường, hát vãn,... được nghệ
nhân dùng cho nhiều loại nhân vật cả thư sinh, lẫn đào và hề,... nhưng tùy nhân
vật và tình huống mà có diễn xuất tương hợp. Thấy ra 2 cách vận dụng:
một, dùng lại y nguyên giai điệu chỉ xê xích diễn xuất cho phù
hợp mọi tình huống nhân vật;
hai, do nội dung lồng vào yêu cầu nghệ nhân đã “bẻ làn nắn
điệu”cho khớp với “cái mới” bằng cách thêm trổ tăng câu, dẫn đến sự ra đời số
làn “mới” song vẫn mang cốt cách của kết cấu cũ từ đó hình thành cả hệ thống
làn điệu, như hệ thống hát sắp ngoài hát sắp (tất nhiên ra dời trước) là những
sắp chờ, sắp cá rô, sắp chênh, sắp chợ, sắp cổ phong,... hệ thống sa lệch ngoài
hát sa lệch, có sa chênh lệch, sa lệch xếp, sa lệch chuyển cung bắc,... hệ
thống đường trường có những đường trường phải chiều, vị thủy, tiếng đàn, bắn
thước.
Những làn điệu nằm trong cùng hệ thống, thường mang nét nhạc cơ
bản giống nhau trên một giai điệu vốn đã mang tính ca khúc hoàn chỉnh với kết
cấu trọn vẹn (phân câu, phân đoạn, kết thúc). Sự tăng câu, tăng trổ làm gia
tăng khả năng thể hiện, cũng là làm giàu thêm kho tàng ca khúc chèo, trong khi
vẫn giữ vững âm hưởng và phong cách của làn điệu cũ cổ truyền. Xếp chúng vào
cùng một hệ thống vừa để tiện sắp đặt, vừa làm cơ sở tiến tới tìm ra tình huống
cụ thể đã buộc nghệ nhân phải cái tiến cái “cũ” khi dùng lại. Có nghĩa, đã một
lần, mỗi lần trong hệ thống từng ở vị trí chuyên dùng khi thể hiện tình tiết
“mới” cho một nhân vật ở một tích nào đấy mà hoàn cảnh vốn cũ truyền miệng
không cho phép ghi nhớ tên người sáng tác ra nó đầu tiên. Thành ra nhìn đại
thể, thì đấy là những làn điệu mang tính đa dùng, nhưng thực chất, chúng từng
giữ vai trò chuyên dùng mà có thể lấy làm ví dụ rõ nhất, cũng có nhất là những
bài hát vãn, vãn canh, vãn xô đi sau than sử dùng trong vở Trương Viên,...
Lại có những làn điệu kết hợp chặt chẽ với múa, với nhạc với
động tác ước lệ hoặc cách điệu, không những chỉ dùng riêng cho một nhân vật mà
trong một tình huống (như hát múa bình tửu với lão say; hát hoài thai (và diễn
xuất) với mụ nói sử và hát cách với thư sinh;... vốn đã mang tính chuyên dùng)
nhưng cao hơn ở chỗ, đây là cả mấy làn điệu (và diễn xuất) chuyên dùng châu
tuần vào thể hiện tính cách một nhân vật, trong khoảng khắc “cao trào” nhất của
tình cảm ở tình huống gay cấn nhất của họ, từ đấy tạo ra được những lớp chèo
đặc sắc đi vào kho tàng truyền thống của nghệ thuật của kịch chủng.
Ðó là lớp Lên chùa của Thị Màu với nói lệch và hát Cấm giá, nói
lệch và hát Bình thảo kết hợp máu thịt với múa và diễn kỹ cách điệu, ước lệ, để
mô tả hết sức hiệu quả hình ảnh cô gái khao khát yêu đương đến nồng cháy, bạo
liệt “với tất cả tính dục nguyên thủy của bản thể con người”. Lớp Vân dại với
những điệu hát (và diễn) Quá giang, Xuôi ngược, Gà rừng, Lới lơ,... với những
khuôn múa (và nhạc đệm) như múa Ðiên ở nhiều cấp độ và chuỗi múa Hái dâu, Chăn
tằm, Kéo sợi, Dệt vải, May áo, tất cả kết hợp với diễn xuất cách điệu ước lệ và
qua “tài hát hay múa lạ” và diễn kỹ đóng giả kẻ điện rồ, mà bộc lộ một cách
tuyệt vời, nỗi lòng rối ren khôn tỏ của người đàn bà gạt nước mắt “quá giang”.
Hoặc lớp đánh ghen bằng vỉa, hát, múa là chính (với những dậm chân, Suông hời,
Thiếp bỏ cho chàng, Có thánh trị vì, Bắt hò) mà chỉ diễn tả, vô cùng sống động
nỗi lòng cố nén nhưng từng lúc lại bùng lên của người vợ từ Huế ra Bắc tìm
chồng, bất chợt bắt gặp “đức ông” đang cập kè với cô nhân tình ngoài đường
cái...
Những làn điệu khuôn múa dành riêng để thể hiện các khía cạnh
nội tâm hoặc hành vi của mỗi tính cách kể trên đều mang đặc điểm chuyên dùng rõ
rệt. Do vấn đề miêu tả và thời gian cho phép, mà nghệ nhân tập trung chúng tạo
thành từng lớp chuyên dùng đặc sắc, đa nghĩa. Là nói những mảng hay lớp trò sử
dụng thiên về nhạc và múa. Chứ nghệ nhân, vẫn trên nguyên tắc tùy vai, tùy sự
biến động, mà vận dụng linh hoạt mỗi thủ pháp nghệ thụât nằm trong ngôn ngữ
kịch chủng, để có lớp thành công không kém. Như lớp việc làng chỉ dùng nói lối,
thường với nhân vật biểu trưng và động tác ước lệ khoa trương, lớp Phú ông thử
trống thử chiêng cũng chỉ dùng dùng nói thường và động tác biểu trưng hoặc
những Hoàng Trừu nhạn vợ, Từ Thức về trần dùng xen kẽ múa hát với diễn kỹ,
những Xã Dốt hỏi vợ, Hề Tiểu... lại dùng nhiều nói thường...
Thấy ra những tác phẩm thuộc loại kịch hát kể chuyện đều có khả
năng phân tách thành nhiều mảng và mỗi mảng lớp nếu được người nghề bỏ công tạo
dựng đều có khả năng sống cuộc sống “độc lập”. Nghệ thuật chèo cổ thực sự đã
chứng minh điều đó, mỗi vở diễn là mỗi công trình “gim ghép” số mảng miếng mà
giá trị của chúng do mức gia công sáng tạo nghệ thuật nhiều hay ít của nghệ
nhân quyết định. Vận dụng thủ pháp nào trội hơn là do sự nhận biết của họ về
yêu cầu thể hiện của bản trò và nhân vật, do khả năng nghề nghiệp và sở trường
cá nhân.
Ðây đó trong một số vở cổ ở địa phương trước đây thấy dùng những
hát ngang, hát bốc, vãn non nai,... nhưng trong mấy hội nghị khai thác những
năm 1958, 1961, không thấy nghệ nhân nơi nào dừng lại. Trong khi không ít bác
“bằng lòng” cho Thị Kính hát ba than (đận than dân trước lúc thế phát) có vể
một làn điệu chuyên dùng cho nhân vật trinh Nguyên hát trước bàn thờ chồng
trước khi lai Kinh, (thương chồng thương con thương thân ) và cho Tú Bà nói
lệch sang cấm giá bộc lộ bản sắc con người mụ, là mấy làn điệu chuyên dùng của
Thị Màu, mụ còn có bài hát (và diễn) sắp chợt giành riêng, thuộc dạng “bẻ nắn
làn điệu” nằm vào hệ thống hát sắp)...
Từ những điều trình bày trên, rút ra nhận xét là, cha ông mỗi
khi dàn dựng tiết mục mới đã căn cứ vào yêu cầu thể hiện của bản trò (khả năng
nghệ nhân trong phường) và vận dụng ba cách làm:
- dùng lại những thủ pháp cũ (bao gồm làn điệu, khuôn múa, khuôn
diễn) còn khả năng mô tả khi kể tích mới ở tình trạng nguyên dạng với sự tăng
cường đáng kể diễn xuất.
- khi vận dụng vốn cũ thấy có chỗ “không phù hợp” với tích mới
thì mạnh dạn cải tiến bằng cách bẻ làn nắn điệu đồng thời tăng cường diễn xuất
thích đáng (những hệ thống làn điệu ra đời trong hoàn cảnh này).
- điều rất quan trọng là do yêu cầu thể hiện những nhân vật,
những tình huống trước đấy chèo chưa có, mà nếu bẻ làn nắn điệu cũng không đáp
ứng nổi, nghệ nhân sẽ mạnh dạn sáng tạo những diễn xuất mới phù hợp, mà nổi rõ
hơn là ca hát múa. Những làn điệu, khuôn múa chuyên dùng, những mảng, lớp
chuyên dùng chính đã ra đời các trường hợp này.
Như vậy trong một vở chèo cổ được người nghề coi là truyền thống
đích thực, luôn có sự kế thừa, đúng ra là kết hợp thích đáng giữa hình thức“cũ”
với nội dung mới, để tạo dựng một phong cách nghệ thuật thuần nhất cho tiết
mục, cho kịch chủng. Cái mới sẽ tùy yêu cầu thể hiện bản trò, tuy khả năng nghệ
nhân, tùy đòi hỏi thưởng thức của người xem địa phương mà giữ vai trò nhiều hay
ít. Khá nhiều vở mới dừng lại hình thức cũ tràn lan, dẫu có dừng lại với sự
“thông minh” cũng không được nhà nghề và người xem quan coi trọng. Chưa thấy
trong vốn cũ, vở chèo nào “tung hê” toàn bộ nghệ thuật diễn xuất cha ông để lại
(trừ một lần, chèo cải lương thử nghiệm“viết nhạc mới tối tân riêng” cho vở Ðôi
chữ đồng tâm, nội dung có ý “xoa vuốt” thực dân Pháp, song bị thất bại thảm
hại, và chèo mới thử dụng Cô gái giải phóng năm 1964 rồi gần đây có mấy đơn vị
làm thử loại ca - kịch - mới...)
Cũng từ tình hình trên, phát lộ quá trình chuyển hoá nghệ thuật
từ chuyên dùng sang đa dùng tuy chậm chạp, lắm khi lẻ tẻ, song mạnh dạn, với xu
thế ngày càng chiếm số nhiều tương ứng với đề tài mới khai thác, như vở Sợi tơ
vàng đã dùng hơn 20 điệu chèo hay nhất trong vốn cổ chẳng hạn. Trong thời kỳ
không ngắn, việc dùng lại những hình thức “chuyên dùng” để thể hiện tính cách
mới đã làm chúng loãng dần sắc thái và tác dụng, để sau nhiều lần ở vị trí đa
dùng, sức mô tả thể hiện của chúng sẽ không còn bao nhiêu, chúng có thể gây màu
sắc và âm hưởng chung cho kịch chủng.
Thấy như đặc diểm đa dùng và chuyên dùng nghệ thuật của chèo
muốn chứng minh nguyên lý, là nội dung mới đòi phải có hình thức tương hợp.
Song chèo cổ, trong điều kiện và hoàn cảnh xã hội nông nghiệp lạc hậu nhiều
mặt, không chủ trương đổi mới hình thức đồng loạt, ngay lập tức, mà chỉ mới cải
tiến chuyển hoá tuần tự, tiếp nối, mà chỉ mới cải tiến chuyển hoá tuần tự, tiếp
nối, trong đó sự lập lại kế thừa đi song song với sự phát triển, sáng tạo, nhằm
vào xây dựng một kết cấu nghệ thuật đủ sức thể hiện và thể hiện tốt tích mới,
làm nổi rõ chủ đề và hình tượng do bản trò hoạch định đòi hỏi.
Vậy có thể nói đặc điểm chuyên dùng và đa dùng nghệ thuật chứng
tỏ, đúng ra là bộc lộ quy luật phát triển của chèo cổ.
theo báo vnn.vn