Tìm hiểu nghệ thuật chèo- Phần 6

Tìm hiểu nghệ thuật chèo- Phần 6 2. Mấy nhận xét về quá trình chuyển hoá và phát triển của chèo sân đình: Vậy là, chỉ cần căn cứ vào...


Tìm hiểu nghệ thuật chèo- Phần 6

2. Mấy nhận xét về quá trình chuyển hoá và phát triển của chèo sân đình:

Vậy là, chỉ cần căn cứ vào những vở cổ còn lưu giữ trong nhà nghề, đặc biệt số vở được nghệ nhân lấy ra những mảng miếng, thủ pháp đủ sức làm mẫu cho nghệ thuật truyền thống, chúng ta đã thể nhận ra quá trình chuyển hoá, phát triển nhiều mặt của chèo cổ, đúng hơn chèo sân đình.

Trên đường xâm nhập ngày càng sâu vào mọi mặt sinh hoạt đời thường của bà con thôn xóm, những người làm chèo đã nhanh chóng kịp thời chuyển địa điểm diễn qua sân đình, từ lòng đình hoặc thềm đình quay ra ba phương sáu hướng, lấy đấy làm khán trường ngoài trời rộng rãi phóng khoáng; Cứ thế, dần hình thành cả loạt nguyên tắc kịch thuật linh hoạt độc đáo, mà nhiều nhà chuyên môn gọi là sân khấu ba mặt.

Quá trình tìm cách thể hiện các tích mới, nhân vật mới, tình huống mới, nghệ nhân đã vay mượn các loại dân ca, dân vũ trò diễn dân gi­an và “chèo hoá” chúng dần cho tới khi thành thủ pháp của vốn nghề nhà. Không loại trừ những cái mới không thể không sáng tạo, ban đầu có thể còn vụng về, gồ ghề, sau được người này kẻ kia uốn nắn sửa sang mà thành hay dần, đẹp dần, với sức diễn tả mạnh dần.

Dường như trong chèo cổ, cái cười ngày càng chiếm thời gi­an dài, càng chú ý phản ánh những thói hư tật xấu của đời thường. Ðiều đó, làm cho tính xã hội của chèo ngày mỗi nổi đậm về sau. Nổi bật hơn cả là lớp việc làng chỉ bằng nói thường, nói lối, nói rao, “ngâm thơ”, với đủ thành phần nhân sự của bộ máy chính quyền cơ sở đại diện cho pháp luật, tập tục, đạo lý, tôn giáo, bị vạch mặt thật ê chề.

Song nhà nghề trân trọng gìn giữ, coi là mẫu mực cho nghề Tổ, còn là cả loại hình tượng nhân vật nữ tốt có, chưa hẳn tốt có, chưa hẳn xấu cũng có, đặc biệt là số nhân vật nữ vượt khỏi vòng kiềm toả của đạo lý phong kiến, như Thị Màu, đào Huế, Suý Vân,...

Có điều, nếu Thị Màu chỉ là nhân vật đối tỷ cốt làm bật rõ sự nhẫn nhục của Thị Kính lần nữa, để đức độ nàng khả dĩ đủ mức lên toà sen thành Phật Quan Âm; nhân vật đào Huế tuy chẳng ai nói là “phản diện” nhưng cũng không được nhà Nho “ưa”, vẫn chỉ là chi tiết phụ, mà nếu có lược đi cũng không hại gì đến kết cấu và chủ đề tích chuyện; còn Suý Vân, người phụ nữ bất đắc dĩ đành bỏ chồng, lại nằm vào bản thân (tích) trò, hay nói đúng hơn, dễ tới 2/3 thời gi­an diễn tích Kim Nham là để thể hiện nàng.

Thị Màu, Ðào Huế, Suý Vân đều được nghệ nhân sáng tạo thành khuôn diễn với nhiều bài hát múa dành riêng, độc đáo, tới nay vẫn giữ nguyên giá trị thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật.

Những tính cách, chính là đức độ bản sắc nhân vật ấy thường bộc lộ thụ động, tức là họ chỉ phô bày tâm trạng và cách ứng phó khi sự biến đã xẩy ra, bằng cách diễn xuất mang nội dung và hình thức nhiều ít hấp dẫn đủ sức làm gương cho người xem. Chỉ số ít mang tính cách vượt khỏi quan điểm phong kiến mới phô bày một cách chủ động, mà có đúng là cố ý, khi nghệ nhân dùng những làn điệu và khuôn diễn thật đặc sắc làm rạng rỡ nghệ thuật cổ truyền: tính từ những nhân vật Thày Ðồ, Thày Bói, Phù Thuỷ, Vợ Mõ đến Thị Màu, Ðào Huế, Suý Vân.

Ðồng thời với sự xuất hiện lần lượt những cái mới trên, tính xung đột hay thường gọi là tính kịch trong một số bản trò cùng tuỳ người soạn, tuỳ tích, tuỳ phường gánh và khán giả mà gia tăng đáng kể. Ðiều này đi theo với việc bộc lộ tính cách nhiều hay ít chủ động của nhân vật. Như xung đột trực diện và quyết liệt giữa Ðào Huế và Tuần Ty (với đào Nấp) là một bước “mới” so với xung đột cũng trực diện trước đấy giữa Châu Long và Lưu Bình, hoặc giữa Vợ Mõ với Xã Trưởng.

Ðừng quên, dầu nhà nghề nhìn nhận rất “đúng”, rằng từng vở diễn thường là sự ghim ghép (cho là có sáng tạo) các mảng diễn sẵn có của vỗn cũ song với ngót một chục vở truyền thống vẫn được làm mẫu mực cho nghề Tổ, thì nhận xét đó không mấy chính xác. Nhìn vào thực tiễn nghệ thuật của những vở này, ngay số lớp diễn đa dùng (như lớp giáo đầu, lớp lão ông có con gái lớn đến tuổi...) đã thấy sự cố gắng vận dụng cho sát yêu cầu thể hiện bản trò số lớp thuộc vào thân trò cũng chỉ thấy đôi nét hao hao (như Thị Phương lấy chồng đâu có “giống” Thị Kính hát múa Duyên phận phải chiều với Thiện Sỹ, càng không “giống” Suý Vân hát múa vu quy với Kim Nham,..); còn những lớp ruột trò của tích thì rõ ràng khác hẳn về nội dung đã đành, nhất là về hát múa và diễn xuất tạo hình, và dẫu có dùng lại đây đó một vài điệu sắp hay sa lệch hoặc mươi câu nói sử thì nhờ diễn suất thể hiện nội dung mới, chúng đã ăn nhập với toàn khuôn diễn mới. Cứ thử so sánh nghệ thuật của ông Mãng với Lão Mốc, của Thừa Tướng với Trương Công, của Trương mẫu với Tống mẫu, của Hề theo Trương Viên với Hề theo Lưu Bình, Hề theo Kim Trọng v.v... mọi người đều thấy mỗi lớp có nét riêng khó thể “in lại máy móc” vào bất kỳ vở nào khác. Nói chi những lớp “ruột” (Chạy loạn, Sống chung, Lên Chùa, Việc làng, Ðánh ghen, Vân dại,...) là những tập đại thành về trí sáng tạo truyền đời của các thế hệ làm nghề, bao gồm từ người soạn tích, người sắp trò đến nghệ nhân...

ở đây cũng thấy rõ quá trình thu hút hòa nhập số loại hình dân ca, dân vũ, diễn xướng và trò diễn dân gi­an làm thành bản thân nghệ thuật chèo, mà thực tế diễn xuất của số vở truyền thống còn hằn rõ dấu vết. Cho nên, nói “chèo ra đời từ thời Ðinh, xây dựng trên cơ sở trò nhại và hát múa” như một nhà nghiên cứu đã viết là chưa thỏa đáng. Thực ra, chèo từ loại Giáo phát triển thành có tích, có nhân vật, từ đấy du nhập, chuyển biến các loại hát bỏ bộ (trong sinh hoạt hát Xoan, hát Dậm, hát Dô,...), các loại hát nói (trong hát ả đào, hát văn, hát xẩm,...), kết hợp với số động tác trong múa (hát) chèo đò, múa (hát) cửa đình (các khuôn múa bàn tay, múa lượn ngón, múa cánh tay), múa mâm đên, múa qnạt, múa cờ,...; với cả những trò nói mặt, trò trình nghề vốn rất phổ biến trong những hội làng, đánh dấu từng mức trình độ sáng tạo và thưởng ngoạn nghệ thuật của đồng bào từng vùng.

Cho nên, nói chèo sân đình hình thành ngôn ngữ nghệ thuật ngay khi thành hình và phát triển kịch chủng, là đã lưu ý nhiều đến số lớp trò chuyên dùng, xếp cạnh số lớp trò đa dùng, trong đó, âm nhạc giữ vai trò rất quan trọng. Nói cách khác, những gì làm người xem phân biệt chèo với các kịch chủng cùng nằm trong loại hình kịch hát dân tộc (Việt) như Tuồng, kể thêm Cải lương, chưa nói ôpêra, ôpêrét hay kịch nói, những cái lọt vào tai, hiện ra trước mắt người xem (dù là tâm tư tình cảm nhân vật hay không gi­an thời gi­an xẩy ra sự biến) chính là âm nhạc, gồm cả nhạc gõ, nhạc khí và làn điệu qua nghệ thuật biểu diễn của nhà nghề.

Nhìn phương diện đó, với quan niệm rộng rãi về nhạc như cha ông ngày trước, có thể nói, quá trình hình thành và tiến triển nghệ thuật suốt 5 thế kỷ của chèo sân đình, từ Trương Viên trò, Tống Trân trò, cả Lưu Bình trò, rồi Quan Âm trò, sang Chu Mãi Thần, Kim Nham, phải chăng cũng là quá trình phát triển của nhạc chèo, nằm trong đường đi chung của nền nhạc dân tộc (Việt)?

Ðương nhiên, do phải phụ thuộc hoặc chịu ảnh hưởng nhiều ít của những biến thiên văn hóa xã hội mỗi thời kỳ lịch sử mà từ Lý Trần về trước, nhạc dân gi­an và nhạc cung đình, hòa hợp gần như là một; sang đời Hậu Lê có lúc nhạc cung đình hướng ngoại cố giữ vị trí chủ lưu, song không bao lâu cũng chịu bất lực để “tục nhạc” (trong đó có nhạc chèo) bùng lên, ùa tràn vào các lễ nghi triều miếu, bất chấp mấy lần vua Lê chúa Trịnh ra sắc chỉ cấm đoán ngăn chặn, như từng chép ở Ðại Việt sử lý, Vũ trung tuỳ bút. Tới thế kỷ XIX, nhà Nguyễn có lúc muốn thâu tóm tất cả những gì thuộc lễ nhạc về một mối, lập hẳn một Thự, rồi một ban Hiệu Thư chuyên lo mà cũng chỉ cản trở chuyện đó phần nào. Bởi chèo sân đình nhờ bám chắc vào đời sống đông đảo bà con và các Hội làng, nên dù ở hoàn cảnh nào cũng được nhân dân bù trì khích lệ mà tồn tại và lớn dần đến ngày nay.

Con đường gần 5 thế kỷ từ Chèo Thuyền bản đến chèo Kiều, hoặc có thể nói, từ trò nhà Phật (có thể gọi là chèo sân chùa?) chuyển sang chèo sân đình qua biết bao biến thiên văn hóa xã hội, cả chính trị, đã để lại cho đời cả một kho tàng nghệ thuật sân khấu dân tộc quý giá, đòi các thế hệ sau quan tâm bảo tồn, kế thừa, phát huy và phát triển thích đáng.

Quả thật, phần lớn vở chèo (cổ) đề cao rất mực những thư sinh lý tưởng (dùi mài kinh sử, thi đỗ làm quan) và những thục nữ mẫu mực, lên án những kẻ bất nhân thất đức, lấy tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức làm thước đo mỗi phẩm cách nhân vật, làm lẽ sống cần vương tới cho mọi người.

Cũng chính từ cuộc sống khổ cực phải chịu hàng ngày mà nhân dân đã thúc đẩy hỗ trợ những người có năng khiếu trong họ sáng tạo ra những diễn xướng, trò diễn có lời hay không có lời có hát múa hay không có hát múa, hoặc chỉ có nhạc gõ với diễn xuất. Tức là chúng hết sức đa dạng, phong phú, chuyển hóa theo những biến thiên văn hóa xã hội, cả chính trị, để từng bước hình thành nghệ thnật chèo sân đình. Quá trình chuyển hóa sáng tạo liên tục này là tập đại thành trí tuệ và công sức của lớp lớp trí thức yêu mến thiết tha nghệ thuật dân tộc, của các thế hệ nghệ nhân giàu tính ngẫu hứng ứng tác ứng diễn truyền đời, không ngừng bổ sung ổn định vốn cũ trau tria kỹ năng tài nghề mà tạo dựng những khuôn diễn cho các loại vai trong các tiết mục, làm cho nghệ thuật chèo ngày thêm giàu sức thể hiện, giàu sức gợi cảm và truyền cảm, gia tăng sức hấp dẫn, đồng thời, càng đặm đặc tính dân tộc.

Mặt khác xem xét từ bản trò đến diễn xuất, cả từng chi tiết thuộc phần ứng tác ứng diễn của nghệ nhân, đều thấy bộc lộ vai trò cốt cán của người soạn tích, những kẻ sĩ. Thì đấy, ngôn từ dùng trong các bản trò dành cho hầu hết các loại vai, thấy chữ Hán chiếm tỷ lệ không nhỏ, dễ tới 1/3. Không kể vô số bài thơ ngâm thuần Hán, còn không ít đoạn lời của đủ các nhân vật lão mụ, kép, đào, hề gặp luôn những đoạn Hán Nôm chen lẫn, lắm khi một câu mà cũng thấy “bán nôm bán tự”, trong khi hầu hết nghệ nhân chèo đều “mù chữ”. Nhìn vào quá trình chuyển hóa phát triển chèo cổ, thấy dường như mỗi bước vươn lên, mỗi xu hướng nghệ thuật ở từng gi­ai đoạn, từng tiết mục, đều lộ ra bàn tay kẻ soạn bản trò. Nghệ nhân đóng vai, trong phạm vi được bác Thơ, ông Trùm gi­ao, chỉ làm phong phú sống động những tích trò, những vai đóng đã do người viết hoạch định các sự biến đủ làm bộc lộ phẩm chất đức độ nhân vật từ trước.

Sự hình thành khuôn diễn cho từng loại nhân vật hay cho từng nhân vật cụ thể là cả một công trình nghệ thuật mang tính tập thể cao độ, trong đó, mỗi người mỗi góp vào, phần nhiều từ ứng diễn ứng tác truyền đời trên cơ sở bản trò. Vì thế hình tượng vai đóng đã hầu thành khuôn diễn chung trên đường nét cơ bản đòi kẻ đi sau phải cố gắng tuân thủ, nhất thể đối với số vai hay, vở diễn hay, đã được giới nghề coi là vốn cũ truyền thống. Sự sáng tạo (nếu có) của những kẻ đi sau có chăng là số nét chi tiết khác lạ hơn trước, do nghệ nhân dùng ngay bản thân đóng vai, với các thủ pháp nghệ thuật nằm trong ngôn ngữ kịch chủng. Việc “sáng tạo” đó còn tùy thuộc vào tài năng mỗi người nghề, vào thích thú thưởng ngoạn của khán giả từng nơi, vào quan điểm nghệ thuật của mỗi bác Thơ hay ông Trùm, cốt sao vai đóng vừa khác lạ (so với trước), vừa hay (xem sướng mắt ngọt tai). Chứ diễn xuất có ngẫu hứng mấy mà hát không hay, số nét “mới” đó không tô đậm thêm hình ảnh thậm chí làm loãng, làm “lạc” bản chất nhân vật truyền thống, thì không thể nói là sáng tạo.

Việc chèo cổ mỗi khi dựng vở khác tích vẫn cố gắng dùng lại vốn cũ (câu văn, làn điệu, diễn xuất) còn khả năng thể hiện nội dung mới đưa vào; hoặc “bẻ làn nắn điệu” (tức là chuyển hóa một bước) để vốn “cũ” phù hợp hơn với nội dung mới; đồng thời sáng tạo diễn xuất mới khi gặp nhân vật mới, tình huống kịch mới mà vốn cũ chịu bất lực; tất cả phải trên cơ sở yêu cầu của bản trò. Ðấy chính là cung cách kế thừa và phát triển nghệ thuật của chèo sân đình.

Nhìn vào phương diện văn sử cũng thấy vậy. Cho dầu đều do các nhà nho biên soạn, con đường đi từ Việt diện u linh.... ghi lại nhưng chuyện thần thông biến hóa của không ít quỷ ma tiên thánh, với thái độ kính tín thờ phụng, chi ít cũng tỏ ra rất trân trọng; thì sang Lĩnh Nam chích quái soạn đi soạn lại vẫn loại chuyện đó, song hành trạng của mỗi Vị, được ghi lại trên nét chính, qua số sự biến đủ vẽ lên, đúng hơn, phác họa cuộc đời một siêu nhân, tuy đã kể lướt hoặc lược bỏ số chi tiết bộn bề của hiện thực, song không hề thấy có sự xúc phạm hoặc thái độ hay cảm giác chê bai. Ðể đến những truyện “ra đời” sau đấy rõ là hiện thực ngoài đời tràn vào ngày một nhiều thì văn nghệ dân gi­an và chèo phải phát huy cái hài ngày mỗi mạnh, để phản ánh, thực ra có phần đối phó với tình hình, ngõ hầu bắt kịp những đổi thay theo đà tiến chung của xã hội.

Cũng từ quá trình chuyển hoá mọi mặt của chèo sân chùa, sân đền sang chèo sân đình dòng dã mấy thế kỷ mà lộ dần số đặc điểm chi phối các khâu thuộc nội dung và hình thức của chèo cổ. Có điều do hạn chế lịch sử, số đặc điểm này chưa được đúc kết thành hệ thống (hoặc đúc kết rồi nhưng thất lạc chưa tìm thấy lại), nên chúng thường nằm ẩn đây đó trong các khâu nghệ thuật, đòi người nay phải đầu tư trí tuệ và công sức tìm hiểu, bàn bạc, thậm chí tranh luận mới mong đi tới những kết quả đủ chứng minh con đường phát triển của chèo sân đình.

 Báo Bình Định online

Bài Liên Quan

Dân Ca 5480297945442447428

Đăng nhận xét

emo-but-icon

Chuyển ngôn ngữ

Subscriber Youtube

Tin Fanpage

Bài đăng và Bình luận

Nóng

Bài Mới

Bình Luận

Visitors

Flag Counter
item