Tìm hiểu nghệ thuật chèo: Phần 4
Tìm hiểu nghệ thuật chèo: Phần 4 Nguồn gốc và thời điểm hình thành chèo Việt Nam có cả một kho tàng sân khấu cổ truyền gồm nhiều k...
https://www.maivanlang.com/2015/09/tim-hieu-nghe-thuat-cheo-phan-4.html
Tìm hiểu nghệ thuật chèo: Phần 4
Nguồn gốc và thời điểm hình thành chèo
Việt Nam có cả một kho tàng sân khấu cổ truyền gồm nhiều kịch
chủng như: múa rối, tuồng, chèo; mà mỗi loại lại có những đặc điểm nghệ thuật
độc đáo, sinh sắc, không thể lẫn lộn. Nẩy sinh và lớn lên trong xã hội nông
nghiệp lạc hậu, chúng tiến triển tương ứng với trình độ và nhu cầu nhiều mặt
của mỗi thời kỳ lịch sử, mặc nhiên trong những món ăn tinh thần không thể thiếu
của đông đảo con dân đất Việt, trong đó sân khấu chèo giữ một vị trí hết sức
quan trọng. Ðể chèo có được vị thế như ngày hôm nay, chúng ta cùng nhau quay
trở lại nguồn gốc của nó.
1. Những ý kiến đã phát biểu về nguồn gốc và sự hình thành chèo
Có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc và sự hình thành của
chèo, tuy nhiên có thể tóm tắt một số ý kiến đã phát biểu từ trước đến nay, về
nguồn gốc và thời điểm xuất hiện của Chèo như sau:
- Chèo có nguồn gốc ngoại lai, bắt đầu từ sự kiện quân ta cầm
giữ nghệ nhân Lý Nguyên Cát ở trận Tây Kết;
- Chèo khởi lên từ Trịnh Trọng Tử cho quân hát khúc Long ngân
đang khi đưa tang vua Trần Nhân Tông:
- Danh xưng chèo do ghi Nôm, dịch chữ Hán ra; hoặc từ chữ Trào
(trào lộng) mà ra; hoặc chữ chèo do phát âm sai mà thành chèo; do phiên Nôm,
dịch Hán đồng dạng những chữ chào (chào mừng), chữ chầu (chầu thần thánh), chữ
triều (triều đình, đọc thành trào đình)...
- Chèo chỉ động tác chèo thuyền, đề nói nguồn gốc chèo xuất phát
từ trò tang lễ và lao động;
- Chèo là hình thức sân khấu thuần tuý dân tộc, bắt nguồn từ kho
tàng văn hoá nghệ thuật dân gian phong phú lâu đời Việt Nam;
- Về thời điểm thành hình, có những ý kiến cho chèo có ở nước ta
từ thời tiền sử, thế kỷ thứ IV trước Công nguyên đến thế kỷ thứ I sau Công
nguyên; hoặc thế kỷ thứ X (thời nhà Ðinh); hoặc thế kỷ XIV (cuối nhà Trần);...
2. Chúng tôi không tán thành nhóm ý kiến cho rằng chèo bắt đầu
thành hình từ khi có nghệ nhân Trung Quốc Lý Nguyên Cát (hay Hứa Tông Ðạo),
hoặc bất cứ nguồn gốc ngoại lai nào
Dựa trên những gì ghi khắc trong sử sách, bi ký qua các đời
Ðinh, Tiền Lê, Lý đến cuối Trần, đã có thể rút ra mấy nhận xét.
Một. Các hình thái hát (kết hợp) múa, các trò hề riễu đã tồn tại
ở xã hội ta khá phong phú và ngày một phát triển:
- Ðời Ðinh tương truyền có Phạm Thị Chân, Ðào Văn Xó
- Ðời Lý với tầng lớp tăng lữ đông đảo có thế lực, kết hợp lại
qua với quý tộc cũ mới, thêm Nho giáo, rồi qua chiến tranh giữ nước mà chín
muồi dần tinh thần dân tộc đưa tới ra đời chữ Nôm với sự liên kết giữa tăng lữ
Từ Ðạo Hạnh, nho sĩ Mai Sinh, nghệ nhân Sai ất (hay Phan Khất?). Và rằng phần
lớn các vua Lý đều thích múa hát với Ðào Thị, Ðỗ Anh Vũ...
- Ðời Trần, Nho giáo ngày một lấn át Phật Giáo, Ðạo Giáo, nẩy
sinh tầng lớp nho sỹ vừa sử dụng tốt chữ Hán, vừa mầy mò xây dựng chữ Nôm, vừa
chan hoà với văn hoá dân gian, như Chu Văn An, Nguyễn Thuyên, Dư Nhuận Chi,
Nguyễn Sỹ Cố, Trần Nhật Duật,...
Hai. Sự xuất hiện những mảnh trò có tích đơn giản, những nghệ
nhân vươn lên chuyên nghiệp nhiều loại, như giáp (kép), đào, lão, mụ, hề, những
trò nhại (về hào phú, trưởng giả), những bài giáo (như giáo trống, giáo
hương,...) để từ đấy tổ chức Giáo phường, tập hợp người nghề, lần đầu tiên cho
nhà nước quản lý, với những phường trò, phường hát,...
Ba. Trong bối cảnh ấy, một Tây Vương Mẫu hiến bàn đào hát tiếng
Trung Quốc, ăn vận kiểu Trung Quốc, biểu diễn với dàn nhạc Trung Quốc, không
thể xoá nhoà tất cả, để có thể coi là khởi điểm cho sự ra đời một kịch chủng
thuần tuý dân tộc như Chèo. Những cung cách tiến hành biểu diễn tiết mục ấy,
với sắc thái và âm hưởng như sử sách miêu tả, xét các mặt nghệ thuật hát, múa,
diễn kỹ, không ai có thể nhận thấy là chèo.
Có chăng, với số điểm mới trong tiết mục (như quần áo lại kiểu,
âm nhạc lạ tai, sân khấu hẳn hoi, nghệ nhân ra diễn, lại vào, lại ra diễn...)
sẽ góp phần thúc đẩy nghệ thuật bản địa thích ứng nhanh hơn với tình hình và
yêu cầu thưởng thức của nhân dân đương thời.
3. Từ trước đến nay, chúng tôi vẫn cho rằng, chèo bắt nguồn từ
kho tàng văn hoá nghệ thuật dân gian, dân tộc, với sự đóng góp quan trọng của
giới trí thức bình dân và quý tộc, từng tồn tại lâu đời trên đất nước Việt Nam,
đúng ra là vùng trung châu và đồng bằng miền Bắc
Khi nói chèo bắt nguồn từ kho tàng dân ca cổ truyền Bắc Bộ, lưu
ý rằng, không phải loại dân ca nào cũng có thể phát triển thành chèo, mà chỉ
những loại hát nói đậm đặc chất tự sự mới tiềm ẩn khả năng đó, chí ít cũng có
số hình thái mang âm hưởng gợi nhắc đến chèo. Tất nhiên, những nghệ nhân chèo lành
nghề có thể “chèo - hoá” không mấy khó khăn bất cứ làn điệu hoặc bài dân ca
nào.
Có vẻ như cổ xưa, mấy loại dân ca đồng bằng miền Bắc, như Hát
đúm, Hát ví, Hát trống quân... với cấu trúc giai điệu ngắn gọn thẳng đuột, phụ
thuộc vào ngữ điệu, tiết nhịp câu dân dao 6/8, thêm dăm ba tiếng đệm lót vào
đầu, chen giữa hoặc vào cuối cho thành về trống vế mái. Về sau, tuỳ địa phương,
tuỳ người hát, chúng có chuyển hoá chút ít hoặc thêm chữ để thành những câu
thất tự, bát tự, cửu tự hoặc thêm nội dung làm câu hát dài ra; hoặc thêm đảo
nhịp, nghịch nhịp cho câu hát thêm vui nhộn; hoặc gia tăng loại câu đố đó thêm
lề lối các loại dân ca khác, đặt vào “giọng vặt”, làm buổi hát là sự tập hợp
sắc màu cho “xôm trò” hơn là một cách phát triển nghệ thuật.
Những loại dân ca cổ hơn thì qua lề thói sinh hoạt và tiến trình
thực hiện, đủ nói sự phát triển từng thời kỳ với số hiện tượng nghệ thuật khá
gần gũi với chèo.
Như Hát Xoan (Phú Thọ) mà các hội làng mấy huyện Phù Ninh, Lâm
Thao, Tam Nông, Ðoan Hùng, Hạc Trì hàng năm mở đầu cầu thịnh đầu xuân, đều đón
Phường Xoan về đình hát thờ và vui chơi. Việc Phường Xoan đi hát các làng không
phải vì kế sinh nhai, mà do ràng buộc về tập tục “nước nghĩa” với nhau.
Các buổi hát xoan thường bắt đầu từ chập tối. Khi hát, đào
thường đội khăn nhung, xống láng, áo the thâm, thắt lưng đen, có khi bao xanh
hoặc hồng; kép thì khăn lượt hoặc khăn xếp, áo the thâm, quần trắng, cổ quàng
giải khăn nhiễu điều. Sau hồi trống dạo, Trùm phường cùng ông Chủ tế hội làng
ra trước hương án cất câu hát chúc (kiểu đọc sớ). Dứt tiếng, một kép trẻ đeo
trước bụng chiếc trống nhỡ, vừa hát vừa nhún nhẩy, miệng Giáo trống, Giáo pháo.
Rồi bốn đào xếp hàng ngang, tay càm quạt khuỳnh ra trước mặt vừa hát Thơ nhang
vừa làm điệu bộ câu “Tiến nhang lên, lùi nhang xuống” và bắt vào Ðóng đám, chấm
dứt 4 câu “vặt” mở đầu, để chính thức vào hát Quả cách (gọi tắt là hát cách),
theo trật tự quy định từ quả 1 đến quả 14 (như Kiều giang cách, Nhàn ngâm
cách, Tùng mai cách, Xuân thời cách, Chèo thuyền cách, Tứ mùa cách,...). Hát
hết các quả lại chuyển sang hát các dọng “vặt”, (như Bợm giá, Bỏ bộ, Xin hoa,
Bắt cá, Hát phú,...). Xem chừng đã hòm hòm, ông Trùm và ông Chủ tế cất câu hát
giã kết thúc đêm hát.
Trong bài Phú Năm canh thấy có những câu giống in mấy câu trong
vở chèo Quan Âm, như:
Bây giờ hồ sang trống canh một,
Chim bay về chân núi Lịch San,
Ve gợi sầu nhắn nhủ đê đàn,
Sông lai láng, buồn về góc bể....
Và còn không ít câu gợi nhắc văn vở Lưu Bình Dương Lễ....
Hay như Hát dậm (Hà Nam cũ) mà hàng năm, làng Quyến Sơn (Kim
Bảng) mở hội để tưởng vọng công tích Lý Thường Kiệt đánh giặc Chiêm thuở nào,
thì Phường dậm lại tụ họp nhau tập dượt hàng tháng trước. Hát dậm cũng nằm
trong phạm trù hát tờ và vui chơi, có những hình thái diễn xuất không mấy khác
Hát xoan, chẳng những thế, còn gây cảm giác “cổ” hơn.
Nằm trong các sinh hoạt dân ca cổ, như Hát cửa đình, hát quan
họ, hát dậm,... thường thấy đưa vào vô số giọng “vặt” mang tên hát bỏ bộ, tức
là hát có điệu bộ, mà nhiều khi thực chất là những trò diễn giản đơn, hồn
nhiên, ở mức hoạt cảnh và nếu thêm tích thì còn sơ lược, có tính chất minh hoạ.
Nhưng thú vị thay, chúng lại mang những gì gần gũi nhau, trước hết về sự hài
hước dung tục, anh em với hề chèo.
Song xét mặt ca nhạc, thì gần gũi với hát chèo hơn cả có lẽ là
hát xẩm, loại nghệ thuật “đặc biệt” của lớp người mù loà có năng khiếu văn
nghệ, mà dân gian gọi là xẩm. Bất chấp mọi điều kiện hết sức khó khăn, xẩm là
biết tổ chức nhau lại thành Làng, Phường hoặc Hội, có ông (bà) Trùm (do làng
bầu) và số nghệ nhân giỏi nghề có uy tín, trông coi cắt đặt công việc làm nghề,
hàng năm có họp bàn xem xét mọi mặt, bầu người cầm đầu, giải quyết các vụ việc
tranh chấp, dạy dỗ bọn trẻ...
Thành ra, hát xẩm từ yêu cầu của khách thưởng thức đòi người
nghề phải thể hiện nội dung ngày một mở rộng (câu hát dài hơi hơn, tích chuyện
đi sâu hơn, nhân vật nhiều hơn,...), nên mặc dầu ở tình cảnh mù loà, ngồi một
chỗ vừa hát vừa đàn và làm điệu bộ, nó cũng đã gia tăng làn điệu với sắc thái
nhiều đến kết cấu làn điệu của hát chèo. Dĩ nhiên, có thể nghĩ, là hát xẩm ra
đời trước khi có hát chèo, là một trong nhiều nguồn góp phần cấu thành hát
chèo; hoặc ngược lại, hát xẩm chỉ là bản sao vụng về của hát chèo trong điều
kiện và hoàn cảnh rất ư hạn chế của lớp người tật nguyền; hoặc đây là mối liên
quan ruột rà tất yếu không ai chối cãi giữa hai loại hình, bởi chính nghệ nhân
xẩm xếp Hát xẩm và Chèo cùng loại trung ca, trong khi Tuồng vào loại võ ca, Ca
trù vào loại văn ca.
Những điều vừa trình bày qua thực tế nghệ thuật của một phần kho
tàng hát múa dân gian vùng trung chân và đồng bằng miền Bắc đã thấy chúng có
những tố chất khả dĩ dẫn đến sự hình thành hoặc có ảnh hưởng qua lại đậm đặc
hay nhẹ nhõm tới nghệ thuật chèo (cổ).
Ðã nói chèo bắt nguồn từ kho tàng dân ca, dân vũ, dân nhạc và
trò diễn dân gian, bao gồm những trò nằm trong phạm trù tín ngưỡng, những trò
trình diện, trình nghề luôn thấy trong các hội làng, mà nó cấu thành ngôn ngữ
nghệ thuật, để thể hiện một kịch bản với vở diễn mang sắc thái hứa hẹn phong
cách một loại hình cao hơn, hay nói cho đúng, là tạo dựng được số hình ảnh có
tính cách nói lên đức độ, với nghệ thuật thể hiện phức tạp tinh tế hơn.
Theo báo Bình Định